Tài liệu Tìm hiểu chương trình môn Ngữ văn (Trong Chương trình Giáo dục phổ thông 2018)
Bạn đang xem 30 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Tìm hiểu chương trình môn Ngữ văn (Trong Chương trình Giáo dục phổ thông 2018)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
tai_lieu_tim_hieu_chuong_trinh_mon_ngu_vann_trong_chuong_tri.docx
MĐ 1 Ngu van.pdf
Nội dung tài liệu: Tài liệu Tìm hiểu chương trình môn Ngữ văn (Trong Chương trình Giáo dục phổ thông 2018)
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI TÀI LIỆU TÌM HIỂU CHƯƠNG TRÌNH MÔN NGỮ VĂN (Trong Chương trình Giáo dục phổ thông 2018) HÀ NỘI, 2019 0 Người biên soạn: 1. PGS.TS. Đỗ Ngọc Thống (Chủ biên) 2. GS.TS. Nguyễn Minh
- Thuyết 3. PGS.TS. Đỗ Xuân Thảo 4. TS. Phạm Thị Thu Hiền 1 MỤC LỤC I. ĐẶC ĐIỂM CỦA MÔN HỌC 3 II. QUAN ĐIỂM XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH MÔN HỌC 4 III. MỤC TIÊU CỦA
- CHƯƠNG TRÌNH MÔN HỌC 5 IV. YÊU CẦU CẦN ĐẠT VỀ PHẨM CHẤT VÀ NĂNG LỰC 6 V. NỘI DUNG GIÁO DỤC 9 VI. PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC 18 VII. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ GIÁO DỤC 29 VIII. PHƯƠNG TIỆN, THIẾT BỊ DẠY HỌC 33 PHỤ LỤC 1: BÀI SOẠN MINH HỌA 36 PHỤ LỤC 2: ĐỀ MINH HỌA CHO ĐÁNH GIÁ 50 TÀI LIỆU THAM KHẢO 64 2 I. ĐẶC ĐIỂM CỦA MÔN HỌC 1. Vị trí và tên môn học trong chương trình GDPT Môn Ngữ văn là môn học bắt buộc thuộc lĩnh vực Giáo dục ngôn ngữ và văn học, được học từ lớp 1 đến lớp 12. Ở tiểu học gọi là môn Tiếng Việt, mỗi năm học
- 35 tuần với số tiết học cho mỗi lớp là: lớp 1 (420 tiết), lớp 2 (350 tiết), lớp 3 (280 tiết), lớp 4 ( 245 tiết) lớp 5 (245 tiết)1. Ở trung học cơ sở (THCS) và trung học phổ thông (THPT) môn học này tên là Ngữ văn, mỗi năm học 35 tuần, số tiết học cho mỗi lớp của cấp THCS là 140 tiết; cấp THPT mỗi lớp là 105 tiết, ngoài ra có 35 tiết chuyên đề tự chọn. 2. Vai trò và tính chất nổi bật của môn học trong giai đoạn giáo dục cơ bản và giáo dục định hướng nghề nghiệp CT Ngữ văn 2018 chú ý đến tính chất công cụ và thẩm mĩ - nhân văn; chú trọng mục tiêu và giải pháp giúp HS phát triển toàn diện các phẩm chất và năng lực; kết hợp phát triển các năng lực chung (tự chủ và tự học; giao tiếp và hợp tác, giải quyết vấn đề và sáng tạo) với phát triển các năng lực đặc thù (NL ngôn ngữ, NL văn học, ); kết hợp phát triển năng lực với phát triển phẩm chất. Thông qua các văn bản ngôn từ và những hình tượng nghệ thuật sinh động trong các tác phẩm văn học, bằng hoạt động đọc, viết, nói và nghe, môn Ngữ văn giúp HS hình thành và phát triển những phẩm chất tốt đẹp và các năng lực cốt lõi để học tập tốt các môn học khác, để sống và làm việc hiệu quả, và để học suốt đời. CT Ngữ văn mới phân chia nội dung dạy học theo 2 giai đoạn: Giai đoạn giáo dục cơ bản và Giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp. Nội dung giáo dục ở mỗi giai đoạn có những đặc điểm riêng: – Giai đoạn giáo dục cơ bản: Giúp HS trên cơ sở phát triển năng lực ngôn ngữ, sử dụng tiếng Việt thành thạo để giao tiếp hiệu quả trong cuộc sống và học tập tốt các môn học khác hình thành và phát triển năng lực văn học, biểu hiện đặc thù của năng lực thẩm mĩ; đồng thời bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm để HS phát triển về tâm hồn, nhân cách. Kiến thức văn học và tiếng Việt được tích hợp trong quá trình dạy học đọc, viết, nói và nghe. Các ngữ liệu được lựa chọn và sắp xếp phù hợp với khả năng tiếp nhận của HS ở mỗi cấp học. – Giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp: Củng cố và phát triển các kết quả của giai đoạn giáo dục cơ bản, giúp HS nâng cao năng lực ngôn ngữ, yêu cầu cao hơn về năng lực văn học, nhất là năng lực tiếp nhận văn bản văn học; tăng cường kĩ năng tạo lập văn bản nghị luận, văn bản thông tin có độ phức tạp cao hơn về nội dung và kĩ thuật viết, trang bị một số kiến thức lịch sử văn học, lí luận văn học có tác dụng thiết thực đối với việc đọc và viết về văn học. 1 Mỗi tiết ở Tiểu học từ 35-40 phút; ở THCS và THPT là 45 phút. 3 Ngoài ra, trong mỗi năm, những HS có thiên hướng khoa học xã hội và nhân văn được chọn học một số chuyên đề học tập. Các chuyên đề này nhằm tăng cường kiến thức về văn học và ngôn ngữ, kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, đáp ứng sở thích, nhu cầu và định hướng nghề nghiệp của HS. Tính hướng nghiệp với môn Ngữ văn thể hiện ở mấy điểm sau: i) trang bị cho HS công cụ giao tiếp chắc chắn để có thể học tập và làm việc hiệu quả; ii) cung
- cấp thêm những hiểu biết sâu về văn học, ngôn ngữ học để HS có cơ sở bước đầu lựa chọn đúng các ngành liên quan cần đến các hiểu biết này; iii) ngữ liệu-văn bản đưa vào SGK chú ý hơn đến đề tài thuyết minh về các ngành nghề trong xã hội, nhất là các VB thông tin và nghị luận. 3. Quan hệ với môn học/hoạt động giáo dục khác Chương trình NV 2018 nhấn mạnh tính chất tổng hợp liên ngành, thể hiện rõ mối quan hệ qua lại giữa các môn học: Nội dung môn Ngữ văn mang tính tổng hợp, bao gồm cả tri thức văn hóa, đạo đức, triết học, lịch sử, địa lí, nên liên quan tới nhiều môn học và hoạt động giáo dục khác như Lịch sử, Địa lí, Nghệ thuật, Đạo đức, Giáo dục công dân, Ngoại ngữ, Tự nhiên và Xã hội, Hoạt động trải nghiệm. Các kĩ năng được phát triển trong môn Ngữ văn, với chức năng của môn học công cụ, giúp HS học các môn khác thuận lợi, hiệu quả hơn; ngược lại nội dung giáo dục của các môn học khác cũng cung cấp thêm dữ liệu để môn Ngữ văn khai thác. II. QUAN ĐIỂM XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH MÔN NGỮ VĂN 2018 1. Tuân thủ các quy định cơ bản được nêu trong CT tổng thể, gồm: i) Định hướng chung cho tất cả các môn học; ii) Định hướng xây dựng CT môn Ngữ văn ở cả hai giai đoạn. Quan điểm này giúp cho việc xây dựng CT môn học Ngữ văn thống nhất với CT tổng thể, nhất quán với CT các môn học khác. 2. Dựa trên các cơ sở khoa học sau: a) Kết quả nghiên cứu về giáo dục học, tâm lí học và phương pháp dạy học Ngữ văn hiện đại; b) Thành tựu nghiên cứu về văn học, ngôn ngữ học; thành tựu văn học Việt Nam; c) Kinh nghiệm xây dựng CT môn Ngữ văn của Việt Nam và cập nhật xu thế quốc tế trong phát triển CT nói chung, CT môn Ngữ văn nói riêng; d) Thực tiễn xã hội, giáo dục, điều kiện kinh tế và truyền thống văn hoá Việt Nam. 3. Lấy việc rèn luyện các kĩ năng giao tiếp (đọc, viết, nói và nghe) làm trục chính xuyên suốt cả ba cấp học. Lần đầu tiên việc xây dựng CT môn học này được thống nhất cùng một hệ thống là kĩ năng giao tiếp. Các kiến thức phổ thông cơ bản, nền tảng về văn học và tiếng Việt được tích hợp vào hoạt động dạy đọc, viết, nói và nghe. Quan điểm này vừa bảo đảm tính chất thống nhất trong toàn CT, vừa giúp cho việc tích hợp tốt hơn, thể hiện rõ đặc điểm của CT phát triển năng lực, không lấy việc trang bị kiến thức làm mục tiêu giáo dục. 4. Xây dựng theo hướng mở: đây là điểm đổi mới thực sự trong việc xây dựng CT môn Ngữ văn. Tính chất mở của CT được thể hiện ở những điểm quan trọng sau đây: Một là không quy định chi tiết về nội dung dạy học, nhất là các văn bản - tác 4 phẩm (VB-TP) cụ thể mà chỉ quy định những yêu cầu cần đạt về đọc, viết, nói và nghe cho mỗi lớp; quy định một số kiến thức cơ bản, cốt lõi về tiếng Việt, văn học và một số VB-TP có vị trí, ý nghĩa quan trọng của văn học dân tộc. Đây là nội dung thống nhất, bắt buộc đối với HS toàn quốc. Hai là những VB-TP khác được CT nêu lên trong phần cuối văn bản chỉ là sự gợi ý về ngữ liệu, minh họa về thể loại, kiểu loại VB. Ba là cho phép các tác giả sách giáo khoa (SGK) căn cứ vào các yêu cầu bắt buộc của CT, chủ động, sáng tạo trong việc triển khai các nội dung dạy học cụ thể theo yêu cầu phát triển CT. Bốn là cho phép GV được lựa chọn SGK, sử dụng
- một hay kết hợp nhiều sách, nhiều nguồn tư liệu khác nhau để dạy học trên cơ sở bám sát mục tiêu và đáp ứng yêu cầu cần đạt của CT. Năm là yêu cầu việc đánh giá kết quả học tập cuối năm, cuối cấp không dựa vào các ngữ liệu đã học trong một cuốn SGK Ngữ văn cụ thể mà lấy yêu cầu cần đạt nêu trong văn bản CT môn học làm căn cứ để biên soạn đề kiểm tra, đánh giá. 5. Đáp ứng yêu cầu kế thừa và đổi mới, phát triển: CT cần đáp ứng sự thay đổi của khoa học và thực tiễn cuộc sống cho nên không thể không có đổi mới, phát triển. Tuy nhiên, CT nào cũng được xây dựng trên cơ sở kế thừa từ CT truyền thống, từ đó mà đổi mới, bổ sung, phát triển. III. MỤC TIÊU CỦA CHƯƠNG TRÌNH MÔN NGỮ VĂN 2018 1. Căn cứ xác định mục tiêu chương trình, việc xác định mục tiêu môn học thường phải dựa trên một số căn cứ sau: 1.1. Yêu cầu của đất nước về giáo dục thế hệ trẻ trong mỗi giai đoạn Yêu cầu của đất nước được thể hiện trong các văn kiện chính trị, những nghị quyết về chủ trương, đường lối phát triển đất nước của Đảng và Nhà nước. Cụ thể, mục tiêu đổi mới CT giáo dục phổ thông lần này dựa vào yêu cầu của NQ29 của Ban Chấp hành TW Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện GD và ĐT; NQ88 của Quốc hội và QĐ 404 của Thủ tướng Chính phủ về đổi mới CT và SGK phổ thông. 1.2. Đặc trưng của môn học Mỗi môn học có đặc trưng và thế mạnh riêng trong việc góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục nói chung. Môn Ngữ văn là môn học công cụ, có ưu thế nổi trội trong việc phát triển năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học, một biểu hiện cụ thể của năng lực thẩm mĩ. Các phẩm chất được nêu lên trong CT tổng thể (yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực và trách nhiệm), đều có thể thông qua môn Ngữ văn để phát triển cho HS. 1.3. Tham chiếu mục tiêu môn học của một số nước có nền giáo dục tiên tiến Môn Ngữ văn là môn học có trong nhà trường của tất cả các nước. Để hội nhập được với thế giới, nhằm đào tạo được những thế hệ công dân mới vừa mang bản sắc dân tộc vừa có khả năng hội nhập với toàn cầu, cần tham khảo mục tiêu giáo dục của môn Ngữ văn của các nước. 2. Mục tiêu của chương trình 5 Chương trình nêu lên mục tiêu chung và các mục tiêu các cấp học. Mục tiêu chung hay mục tiêu cấp học đều tập trung và 2 nội dung: phẩm chất và năng lực. Sau đây là mục tiêu chung của môn học Ngữ văn: a) Hình thành và phát triển cho HS những phẩm chất tốt đẹp: yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực và trách nhiệm; bồi dưỡng tâm hồn, hình thành nhân cách và phát triển cá tính. CT môn Ngữ văn giúp HS khám phá bản thân và thế giới xung quanh, thấu hiểu con người, có đời sống tâm hồn phong phú, có quan niệm sống và ứng xử nhân văn; có tình yêu đối với tiếng Việt và văn học; có ý thức về cội nguồn và bản sắc của dân tộc, góp phần giữ gìn, phát triển các giá trị văn hoá Việt Nam; có tinh
- thần tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại và khả năng hội nhập quốc tế. b) Góp phần giúp HS phát triển các năng lực chung như năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. Đặc biệt, CT môn Ngữ văn giúp HS phát triển năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học: rèn luyện các kĩ năng đọc, viết, nói, nghe; phát triển tư duy hình tượng và tư duy logic, góp phần hình thành học vấn căn bản của một người có văn hoá: có hệ thống kiến thức phổ thông nền tảng về tiếng Việt và văn học, biết tạo lập các văn bản thông dụng; biết tiếp nhận, đánh giá các văn bản văn học nói riêng, các sản phẩm giao tiếp và các giá trị thẩm mĩ nói chung trong cuộc sống. Như thế, cách trình bày mục tiêu của CT lần này có khác với cách trình bày mục tiêu của CT hiện hành. Trong CT môn Ngữ văn hiện hành, mục tiêu chung và mục tiêu mỗi cấp học gồm 3 nội dung: a) Mục tiêu trang bị kiến thức phổ thông cơ bản, hiện đại có tính hệ thống về ngôn ngữ và văn học ; b) Mục tiêu phát triển năng lực sử dụng tiếng Việt, tiếp nhận văn học, cảm thụ thẩm mĩ, phương pháp học tập ; c) Mục tiêu giáo dục tư tưởng, tình cảm, ý thức và thái độ, Để đạt được mục tiêu môn học, việc dạy học phải thông qua những kiến thức phổ thông cơ bản về tiếng Việt, văn học và bằng các hoạt động đọc, viết, nói, nghe các kiểu loại VB. Có nghĩa là với CT mới, hệ thống kiến thức tiếng Việt và văn học là phương tiện để đạt được mục tiêu phát triển PC và NL. Mục tiêu của cấp học sau được hiểu là tiếp tục phát triển PC và NL của cấp học trước, nhưng có thêm một số yêu cầu cao hơn cấp trước, vì thế MT cấp sau chỉ nêu thêm các biểu hiện nâng cao và mở rộng cho mỗi cấp để tránh trùng lặp do phải nhắc lại. IV. YÊU CẦU CẦN ĐẠT VỀ PHẨM CHẤT VÀ NĂNG LỰC 1. Căn cứ xác định các yêu cầu cần đạt 1.1. Mục tiêu CT giáo dục phổ thông và mục tiêu CT môn học Xác định các yêu cầu cần đạt (YCCĐ) cho môn Ngữ văn, trước hết phải dựa vào MT phát triển PC và NL đã nêu ở CT giáo dục phổ thông với các biểu hiện cụ thể được nêu trong Phụ lục của văn bản CT tổng thể. Từ đó lựa chọn một số biểu hiện phù hợp với đặc trưng và ưu thế của môn học để xác định các yêu cầu cần đạt về phẩm chất và năng lực chung cho môn học này. 6 Bên cạnh đó, các yêu cầu cần đạt còn được xây dựng dựa trên mục tiêu của CT môn học. CT Ngữ văn trước đây thường được xây dựng dựa trên hệ thống kiến thức của hai lĩnh vực nghiên cứu là Văn học và Việt ngữ học và ngữ liệu gồm chủ yếu các tác phẩm văn học được sắp xếp theo trục thời gian. Trong CT Ngữ văn mới, yêu cầu cần đạt thực chất là sự cụ thể hóa mục tiêu giáo dục phát triển PC và NL cho người học. 1.2. Chuẩn kiến thức, kĩ năng của CT Ngữ văn hiện hành và CT Ngữ văn của một số quốc gia Một trong những quan điểm xây dựng CT là kế thừa, vì thế khi xác định các yêu cầu cần đạt đối với HS mỗi cấp học, lớp học, CT Ngữ văn mới tham khảo nhiều quy định về chuẩn kiến thức và kĩ năng của CT hiện hành (2006).
- Ngoài ra, các chuẩn đầu ra CT môn học của một số nước phát triển cũng là một căn cứ quan trọng. Để việc dạy học Ngữ văn có thể hội nhập với thế giới, các yêu cầu cần đạt trong CT đã được xây dựng trên cơ sở tham khảo chuẩn đầu ra của CT môn học tương đương ở một số nước phát triển như Hàn Quốc, Úc, Mỹ, Anh, Singapore 2. Yêu cầu cần đạt về phẩm chất chủ yếu và đóng góp của môn học trong việc bồi dưỡng phẩm chất cho HS Môn Ngữ văn là một trong những môn học trực tiếp hình thành và phát triển cả 5 phẩm chất chủ yếu cho HS ở tất cả các cấp học. Các phẩm chất này được môn Ngữ văn hình thành và phát triển cho HS chủ yếu thông qua các văn bản ngôn từ và những hình tượng nghệ thuật sinh động trong các tác phẩm văn học. Từ việc hướng dẫn đọc hiểu các văn bản văn học đặc sắc, môn Ngữ văn tạo cho HS cơ hội khám phá bản thân và thế giới xung quanh, thấu hiểu con người, biết đồng cảm, sẻ chia, có cá tính và đời sống tâm hồn phong phú, có quan niệm sống và ứng xử nhân văn; bồi dưỡng cho HS tình yêu đối với quê hương, đất nước, con người; tình yêu tiếng Việt và văn học, ý thức về cội nguồn và bản sắc của dân tộc, góp phần giữ gìn, phát triển các giá trị văn hoá Việt Nam; giúp HS thấy rõ vai trò và tác dụng của môn học đối với đời sống con người, có thói quen và nhu cầu đọc sách, có tinh thần tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại, có khả năng hội nhập quốc tế, có ý thức và tác phong của một công dân toàn cầu. 3. Yêu cầu cần đạt về năng lực chung và đóng góp của môn Ngữ văn trong việc hình thành, phát triển các năng lực chung cho học sinh. Môn Ngữ văn có nhiều ưu thế trong việc góp phần hình thành và phát triển toàn diện các năng lực chung đã được nêu trong CT tổng thể. Những năng lực chung này được hình thành và phát triển không chỉ thông qua nội dung dạy học mà còn thông qua phương pháp và hình thức tổ chức dạy học mới với việc chú trọng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học trong hoạt động tiếp nhận và tạo lập văn bản. Chẳng hạn môn Ngữ văn đóng vai trò chủ đạo trong việc hình thành, phát triển năng lực giao tiếp. HS biết xác định mục đích giao tiếp, lựa chọn nội dung và các phương tiện giao tiếp phù hợp với ngữ cảnh và đối tượng giao tiếp; biết tiếp nhận các kiểu văn bản đa dạng; chủ động, tự tin và biết kiểm soát cảm xúc, thái độ trong giao tiếp. Năng 7 lực giải quyết vấn đề trong môn Ngữ văn được thể hiện ở khả năng nhận biết, nhận xét, đánh giá văn bản; biết thu thập, phân tích làm rõ thông tin, ý tưởng mới; biết quan tâm tới các chứng cứ khi nhìn nhận, đánh giá sự vật, hiện tượng dưới những góc nhìn khác nhau. Qua môn Ngữ văn, HS được rèn luyện để trở thành người học tích cực độc lập, sáng tạo trong tiếp nhận và tạo lập văn bản. 4. Yêu cầu cần đạt về năng lực đặc thù và đóng góp của môn Ngữ văn trong việc hình thành, phát triển các năng lực đặc thù cho học sinh Môn Ngữ văn có ưu thế hình thành và phát triển cho HS năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học. Năng lực ngôn ngữ chủ yếu thể hiện ở việc sử dụng tiếng Việt, sử dụng ngôn
- ngữ tự nhiên qua giao tiếp hằng ngày, thể hiện qua các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe các văn bản thông thường. Năng lực này được hình thành dần dần qua từng lớp học, cấp học. Ban đầu, HS học sử dụng ngôn ngữ một cách tự nhiên, theo kinh nghiệm tiếp thu được từ môi trường giao tiếp , sau đó mới tiến đến sử dụng một cách có ý thức. CT Ngữ văn mới không chủ trương dạy sâu các nội dung mang tính hàn lâm nhằm nghiên cứu ngôn ngữ, mà chỉ cung cấp một số kiến thức ngôn ngữ nền tảng để người học có thể sử dụng trong việc thực hành đọc hiểu, viết, nói và nghe các kiểu loại văn bản. Năng lực văn học là năng lực tiếp nhận, giải mã cái hay, cái đẹp của văn bản văn học, thể hiện chủ yếu ở việc HS biết đọc hiểu ngôn từ nghệ thuật thông qua các văn bản văn học; nhận biết, lí giải, nhận xét và đánh giá những đặc sắc về hình thức văn bản văn học, từ đó biết tiếp nhận đúng và sáng tạo các thông điệp nội dung (nghĩa, ý nghĩa, chủ đề, tư tưởng, cảm hứng). Năng lực văn học còn thể hiện ở khả năng tạo lập văn bản, biết cách biểu đạt (viết và nói) kết quả cảm nhận, hiểu và lí giải giá trị thẩm mĩ của văn bản văn học; bước đầu có thể tạo ra được các sản phẩm văn học. Năng lực văn học và năng lực ngôn ngữ khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ và đều thông qua các hoạt động chính là đọc, viết, nói và nghe. Muốn hình thành, phát triển năng lực văn học và năng lực ngôn ngữ phải thông qua các hoạt động ấy theo các yêu cầu từ thấp tới cao. Ngoài ra, môn học này còn góp phần phát hiện, bồi dưỡng các HS có năng khiếu văn chương. Một số yêu cầu cần đạt trong CT Ngữ văn mới có liên quan đến viết truyện, làm thơ theo một số thể thức thông thường trước hết là góp phần giúp HS đọc hiểu tốt hơn văn bản văn học, sau đó là khơi gợi hứng thú và bồi dưỡng kĩ năng sáng tác ở một số HS có năng khiếu. Sau đây là những biểu hiện chính của yêu cầu cần đạt về hai năng lực đặc thù trong CT Ngữ văn 2018. 4.1. Yêu cầu cần đạt về năng lực ngôn ngữ – Đọc trôi chảy, hiểu đúng các văn bản thuộc những kiểu, loại khác nhau với nội dung và hình thức biểu đạt có độ phức tạp tăng dần qua từng lớp học, cấp học; nhận biết, phân tích, đánh giá được nội dung và đặc điểm nổi bật về hình thức biểu đạt của văn bản; biết so sánh văn bản này với văn bản khác, liên hệ với những trải nghiệm cuộc sống của cá nhân và bối cảnh lịch sử, xã hội, tư tưởng, để đọc hiểu các văn bản; 8 có thói quen tìm tòi, mở rộng phạm vi đọc. Từ đó biết chuyển hoá được những gì đã đọc thành giá trị sống. – Viết được các kiểu văn bản khác nhau với nội dung và hình thức biểu đạt có độ phức tạp tăng dần qua từng lớp học, cấp học; bảo đảm các yêu cầu về chính tả, từ vựng, ngữ pháp, phong cách, ngữ dụng, yêu cầu về đặc điểm của kiểu văn bản; biết thể hiện các ý tưởng, thông tin, quan điểm, thái độ một cách rõ ràng, mạch lạc và thuyết phục. – Nói rõ ràng và mạch lạc các ý tưởng, thông tin, quan điểm, thái độ; biết bảo vệ quan điểm của cá nhân một cách thuyết phục, có tính đến quan điểm của người khác; tự tin khi nói trước nhiều người; có thái độ cầu thị và văn hoá thảo luận, tranh luận phù
- hợp; thể hiện được chủ kiến, cá tính trong thảo luận, tranh luận. – Hiểu được ý kiến người khác trong giao tiếp thông thường; nắm bắt được những thông tin quan trọng từ các bài thuyết trình, các cuộc đối thoại, thảo luận, tranh luận, có phản hồi linh hoạt và phù hợp; nhận biết, phân tích, đánh giá được cách mà người nói biểu đạt ý tưởng, cảm xúc và thuyết phục người nghe. Từ nội dung của năng lực ngôn ngữ vừa nêu, CT cụ thể hóa thành các yêu cầu cần đạt cho mỗi cấp học và cho mỗi giai đoạn trong mỗi cấp (tiểu học có 2 giai đoạn: lớp 1 – 3 và lớp 4 – 5; cấp THCS có 2 giai đoạn: lớp 6 – 7 và lớp 8 – 9; cấp THPT 1 giai đoạn: lớp 10 – 12. ( Yêu cầu cụ thể xem trong văn bản Chương trình Ngữ văn 2018) 4.2. Yêu cầu cần đạt về năng lực văn học – Phân biệt được các văn bản văn học và phi văn học; nhận biết được một số thể loại văn học tiêu biểu, các thành tố tạo nên tác phẩm văn học và tác dụng của chúng trong việc thể hiện nội dung. – Biết đọc hiểu ngôn từ nghệ thuật; nhận biết, lí giải, phân tích và đánh giá những đặc sắc về hình thức biểu đạt, trên cơ sở đó tiếp nhận một cách hợp lí và sáng tạo nội dung ( ý nghĩa, chủ đề, tư tưởng, thái độ, tình cảm), những giá trị thẩm mĩ thể hiện trong văn bản (cái đẹp, cái bi, cái hài, cái cao cả, ). – Trình bày (viết và nói) được kết quả cảm nhận và lí giải giá trị của tác phẩm văn học, tác động của tác phẩm văn học đối với người đọc; bước đầu tạo ra được một số sản phẩm có tính văn học. – Có khả năng tưởng tượng và liên tưởng, có cảm xúc trước những hình ảnh cao đẹp về thiên nhiên, con người, cuộc sống trong văn học; làm chủ được tình cảm, có hành vi ứng xử phù hợp trước các tình huống trong đời sống; vận dụng những điều đã học để hoàn thiện về nhân cách và sống một cuộc sống có ý nghĩa. Cũng như năng lực ngôn ngữ, từ nội dung năng lực văn học vừa nêu, CT cụ thể hóa thành các yêu cầu cần đạt cho mỗi cấp học và mỗi giai đoạn trong mỗi cấp. ( Yêu cầu cụ thể xem trong văn bản Chương trình Ngữ văn 2018) 9 V. NỘI DUNG GIÁO DỤC 1. Căn cứ xác định nội dung giáo dục của CT môn Ngữ văn 1.1. Dựa vào mục tiêu và các yêu cầu cần đạt về phẩm chất và năng lực Theo cách tiếp cận mới, các nội dung dạy học cụ thể được lựa chọn phải căn cứ vào mục tiêu và yêu cầu cần đạt của CT; phục vụ trực tiếp và có hiệu quả cho việc hình thành, phát triển phẩm chất, năng lực được quy định trong CT. Cách tiếp cận này sẽ tránh được xu hướng hàn lâm hóa nội dung dạy học, góp phần giảm tải cho HS. 1.2. Hệ thống kiến thức ngôn ngữ học và văn học Nội dung dạy học trong CT còn được dựa trên thành tựu nghiên cứu về văn học và ngôn ngữ học. CT chú ý loại bỏ một số tri thức đã lạc hậu, không còn đúng với khoa học Ngữ văn và thực tiễn đời sống văn học; đồng thời cũng tránh những kiến thức chưa được thừa nhận rộng rãi, nhất là các vấn đề còn đang gây tranh cãi.
- 1.3. Tham khảo các CT Ngữ văn Việt Nam, nhất là CT hiện hành Phát triển CT là một quá trình liên tục qua nhiều thời kì khác nhau. Không có CT nào được thiết kế, xây dựng mới hoàn toàn mà bao giờ cũng phải kết hợp được những yếu tố nền tảng, ổn định, truyền thống và những yếu tố cập nhật, đổi mới. CT hiện hành thực chất được biên soạn từ trước năm 2000 (cấp tiểu học năm 1995, THCS năm 1998 và THPT năm 2000). Văn bản CT Ngữ văn 2006 chỉ là sự chỉnh lí, nối kết cả CT 3 cấp đã biên soạn trước đó thành CT quốc gia thống nhất chính thức. CT Ngữ văn 2006 đánh dấu một bước tiến lớn trong việc phát triển CT môn Ngữ văn với nhiều quan niệm mới mẻ và cập nhật được với trình độ quốc tế. Một số điểm quan trọng của CT 2006 cho đến nay vẫn còn giá trị cần được kế thừa (xem mục kế thừa). 2. Nội dung giáo dục của chương trình môn học 2.1. Giải thích cách trình bày nội dung giáo dục trong CT Ngữ văn 2018 Trong CT Ngữ văn mới, nội dung giáo dục được trình bày thành hai cột: cột bên trái nêu hệ thống yêu cầu cần đạt như là căn cứ xác định và mục tiêu cần hướng đến của nội dung dạy học, cột bên phải nêu hệ thống kiến thức tiếng Việt, văn học và ngữ liệu dạy học như là phương tiện, chất liệu phục vụ cho các yêu cầu cần đạt ở cột bên trái. Các yêu cầu cần đạt được biểu đạt dưới hình thức các cụm động từ bắt đầu bằng những động từ thể hiện các mức độ nhận thức từ thấp đến cao trong thang đo nhận thức và thể hiện năng lực hành động của người học như: nhận biết được, xác định được, phân tích được, so sánh được, đánh giá được, chỉ ra được, viết được, nói được, Còn các nội dung ở cột bên phải được biểu đạt bằng các danh từ/cụm danh từ chỉ những đơn vị kiến thức và ngữ liệu cần dạy. Cách trình bày này cũng khác với CT Ngữ văn hiện hành ( 2006): phần đầu nêu nội dung dạy học và phần sau nêu Chuẩn kiến thức, kĩ năng cần đạt; hai phần tách rời nhau. Phần chuẩn kiến thức, kĩ năng được xây dựng sau khi đã có SGK, phụ thuộc vào SGK. Mô hình trình bày nội dung giáo dục của CT Ngữ văn 2018 như sau 10 Yêu cầu cần đạt Nội dung
- ĐỌC KIẾN THỨC TIẾNG VIỆT KĨ THUẬT ĐỌC - Ngữ âm và chữ viết ĐỌC HIỂU - Từ vựng Văn bản văn học - Ngữ pháp - Đọc hiểu nội dung - Hoạt động giao tiếp - Đọc hiểu hình thức - Sự phát triển của ngôn ngữ và các - Liên hệ, so sánh, kết nối biến thể ngôn ngữ, - Đọc mở rộng KIẾN THỨC VĂN HỌC Văn bản nghị luận ( THCS và - Lí luận văn học THPT) - Đọc hiểu nội dung - Thể loại văn học - Đọc hiểu hình thức - Các yếu tố của văn bản văn - Liên hệ, so sánh, kết nối học - Lịch sử văn học: - Đọc mở rộng NGỮ LIỆU Văn bản thông tin - Văn bản văn học - Đọc hiểu nội dung - Văn bản thông tin - Đọc hiểu hình thức - Văn bản nghị luận - Liên hệ, so sánh, kết nối - Gợi ý chọn văn bản - Đọc mở rộng VIẾT KĨ THUẬT VIẾT VIẾT ĐOẠN VĂN, VĂN BẢN - Quy trình viết - Thực hành viết NÓI VÀ NGHE - Nói - Nghe - Nói nghe tương tác
- 2.2. Định hướng nội dung giáo dục của CT môn Ngữ văn Nội dung giáo dục của môn học bao gồm yêu cầu cần đạt và nội dung dạy học. 2.2.1. Về yêu cầu cần đạt - Yêu cầu về đọc gồm: kĩ thuật đọc và đọc hiểu. Yêu cầu kĩ thuật đọc gồm: các yêu cầu về tư thế đọc, kĩ năng đọc thành tiếng, kĩ năng đọc thầm, đọc lướt, kĩ năng ghi chép trong khi đọc, Yêu cầu về đọc hiểu gồm: 1) Đọc hiểu nội dung văn bản thể hiện qua đề tài, chủ đề, tư tưởng, thông điệp, cảm hứng ; 2) Đọc hiểu hình thức thể hiện qua đặc điểm các kiểu văn bản và thể loại, các thành tố tạo nên mỗi kiểu văn bản và 11 thể loại; 3) Đọc hiểu qua so sánh văn bản, kết nối văn bản với bối cảnh lịch sử, văn hoá, xã hội, với trải nghiệm cá nhân người đọc; đọc hiểu văn bản đa phương thức; 4) Yêu cầu đọc mở rộng, học thuộc lòng một số đoạn, văn bản văn học chọn lọc. Đối tượng đọc gồm 03 kiểu văn bản: Văn bản văn học, Văn bản thông tin và Văn bản nghị luận. - Yêu cầu về viết gồm: 1) Kĩ thuật viết: tư thế viết, kĩ năng viết chữ và viết chính tả, kĩ năng trình bày bài viết, 2) Viết câu, đoạn, văn bản: các yêu cầu về quy trình tạo lập văn bản và yêu cầu viết theo đặc điểm của các kiểu văn bản. - Yêu cầu về năng nói và nghe gồm: 1) Kĩ năng nói: chú trọng khả năng diễn đạt rõ ràng, tự tin và tôn trọng người nghe. 2) Kĩ năng nghe: chú trọng khả năng hiểu đúng và tôn trọng người nói. 3) Kĩ năng nói và nghe có tính tương tác: chú
- trọng thái độ phù hợp trong trao đổi, thảo luận. Các yêu cầu cần đạt của mỗi kĩ năng được cụ thể hóa với các mức độ (độ khó) phù hợp với từng lớp và tăng dần từ thấp đến cao. 2.2.2. Về nội dung dạy học Nội dung dạy học gồm các kiến thức về tiếng Việt và văn học và ngữ liệu. Hệ thống kiến thức được chọn lọc để đáp ứng được các yêu cầu sau: Một là làm cơ sở cho việc hình thành và phát triển các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe, đáp ứng được các yêu cầu cần đạt cả về phẩm chất và năng lực. Hai là bảo đảm cung cấp cho HS một số tri thức nền tảng, cơ bản của học vấn phổ thông về tiếng Việt và văn học, rộng hơn là kiến thức về văn hóa. Hệ thống kiến thức tiếng Việt bám sát các đơn vị cơ bản gồm ngữ âm và chữ viết; từ vựng; ngữ pháp; hoạt động giao tiếp; sự phát triển của ngôn ngữ; các kiểu loại văn bản. Phân bổ các mạch kiến thức tiếng Việt ở từng cấp học như sau: + Cấp tiểu học: một số hiểu biết sơ giản về ngữ âm, chữ viết, từ vựng, ngữ pháp, hoạt động giao tiếp và biến thể ngôn ngữ có khả năng nhận biết, bước đầu hiểu được các hiện tượng ngôn ngữ có liên quan và vận dụng trong giao tiếp. + Cấp THCS: những hiểu biết cơ bản về từ vựng, ngữ pháp, hoạt động giao tiếp, sự phát triển ngôn ngữ và các biến thể ngôn ngữ, giúp HS có khả năng hiểu các hiện tượng ngôn ngữ có liên quan và vận dụng trong giao tiếp. + Cấp THPT: Một số hiểu biết nâng cao về tiếng Việt giúp HS hiểu, phân tích và bước đầu biết đánh giá các hiện tượng ngôn ngữ có liên quan, chú trọng những cách diễn đạt sáng tạo và sử dụng ngôn ngữ trong các báo cáo nghiên cứu và trong giao tiếp. Hệ thống kiến thức văn học bao gồm: những vấn đề chung về văn học; các thể loại văn học; các yếu tố của tác phẩm văn học; một số hiểu biết về lịch sử văn học Việt Nam. Riêng với cấp THPT, có thêm hệ thống chuyên đề học tập, giúp HS có điều kiện tìm hiểu sâu và có phần hệ thống hơn về lịch sử văn học dân tộc. Phân bổ các mạch kiến thức văn học từng cấp học như sau: + Cấp tiểu học: một số hiểu biết sơ giản về truyện và thơ, văn bản hư cấu và văn bản phi hư cấu; nhân vật trong văn bản văn học, cốt truyện, thời gian, không gian, từ 12 ngữ, vần thơ, nhịp thơ, hình ảnh, lời nhân vật, đối thoại. + Cấp THCS: những hiểu biết về các thể loại; chủ thể trữ tình và nhân vật trữ tình; giá trị biểu cảm, giá trị nhận thức của tác phẩm văn học; một số yếu tố hình thức và biện pháp nghệ thuật thuộc mỗi thể loại văn học; cuối lớp 9 có tổng kết sơ giản về lịch sử văn học. + Cấp THPT: những hiểu biết về một số thể loại, tiểu loại ít thông dụng, đòi hỏi kĩ năng đọc cao hơn; một số kiến thức lịch sử văn học, lí luận văn học có tác dụng thiết thực đối với việc đọc và viết văn bản văn học; một số chuyên đề học tập tập trung vào kiến thức về các giai đoạn, trào lưu và phong cách sáng tác văn học.
- Trong danh mục chuyên đề, ở mỗi lớp (10,11,12) đều có một chuyên đề “tập nghiên cứu. Đây là những chuyên đề nhằm tạo cơ hội cho HS tập dượt và trình bày kết quả tập nghiên cứu văn học theo tinh thần phát triển năng lực văn học. Các chuyên đề khác được đề xuất theo tinh thần bảo đảm tính thiết thực, đa dạng trong bồi dưỡng, hệ thống hóa kiến thức, nâng cao kĩ năng thực hành về tiếng Việt và văn học. Toàn bộ hệ thống kiến thức trong phần ND dạy học nêu trên cần được hình thành và phát triển thông qua các hoạt động đọc, viết, nghe và nói; giúp cho các hoạt động này có hiệu quả; hạn chế tình trạng dạy lí thuyết suông, trang bị kiến thức chỉ để biết mà không gắn với các hoạt động rèn luyện kĩ năng giao tiếp và vận dụng vào thực tiễn. Mục Ngữ liệu chỉ nêu định hướng về các kiểu loại văn bản được dạy ở từng lớp; riêng ở cấp tiểu học có quy định độ dài của văn bản. Danh mục các văn bản bắt buộc, văn bản bắt buộc lựa chọn được quy định ở cuối phần Nội dung CT. Danh mục văn bản gợi ý cho tác giả SGK và giáo viên lựa chọn thêm được giới thiệu cuối văn bản CT. 2.2.3. Về văn bản, ngữ liệu Điểm khác biệt lớn nhất về văn bản tác phẩm của CT lần này so với các CT trước đây là tính mở của ngữ liệu. Quyết định số 404 quy định: “CT mới phải xác định cụ thể nội dung và yêu cầu cần đạt đối với mỗi lớp nhưng không quá chi tiết để căn cứ vào CT biên soạn được nhiều SGK”. Nếu CT quy định cụ thể, chi tiết đến từng tác phẩm văn học hoặc trích đoạn tác phẩm phải học ở từng lớp như CT hiện hành thì sẽ khó thực hiện chủ trương đa dạng hóa SGK của Nghị quyết số 88 của QH. Tính mở cũng là xu thế chung về CT môn học này của các nước có nền giáo dục phát triển. Theo tinh thần “mở” của CT mới, không chỉ người biên soạn SGK mà giáo viên cũng có quyền chọn văn bản làm ngữ liệu dạy học và HS được quyền đề xuất một số tác phẩm văn học để thảo luận trong giờ thực hành. Điều này vừa giúp người soạn sách và giáo viên thực hiện được ý đồ thiết kế bài học sáng tạo theo cách của mình, vừa giúp CT gắn bó hơn với cuộc sống, gần gũi với HS, tạo hứng thú học tập cho HS nhiều hơn. 13 CT môn Ngữ văn quy định rõ các tiêu chí lựa chọn văn bản (ngữ liệu) để bảo đảm việc lựa chọn đáp ứng được mục tiêu giáo dục của môn học. Cụ thể, văn bản được lựa chọn phải đáp ứng các tiêu chí sau: a) Phục vụ trực tiếp cho việc phát triển các phẩm chất và năng lực theo mục tiêu, yêu cầu cần đạt của CT. b) Phù hợp với kinh nghiệm, năng lực nhận thức, đặc điểm tâm sinh lí của HS ở từng lớp học, cấp học. c) Có giá trị đặc sắc về nội dung và nghệ thuật, tiêu biểu cho các thể loại và kiểu văn bản; nhất là có tính chuẩn mực và sáng tạo về ngôn ngữ.