SKKN Sử dụng các mô hình, mẫu vật, thí nghiệm gắn liền với thực tiễn trong dạy học môn Lịch sử và Địa lí Lớp 6 (phân môn Địa lí ) nhằm tạo hứng thú cho học sinh
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Sử dụng các mô hình, mẫu vật, thí nghiệm gắn liền với thực tiễn trong dạy học môn Lịch sử và Địa lí Lớp 6 (phân môn Địa lí ) nhằm tạo hứng thú cho học sinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
skkn_su_dung_cac_mo_hinh_mau_vat_thi_nghiem_gan_lien_voi_thu.docx
Nội dung tài liệu: SKKN Sử dụng các mô hình, mẫu vật, thí nghiệm gắn liền với thực tiễn trong dạy học môn Lịch sử và Địa lí Lớp 6 (phân môn Địa lí ) nhằm tạo hứng thú cho học sinh
- PHÒNG GD – ĐT XUÂN TRƯỜNG CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRƯỜNG THCS XUÂN HÒA Độc lập - Tự do - Hạnh phúc BÁO CÁO BIỆN PHÁP NHẰM TẠO HỨNG THÚ HỌC TẬP VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG BỘ MÔN LỊCH SỬ – ĐỊA LÍ 6 I. Tên biện pháp, lĩnh vực áp dụng 1. Tên biện pháp: Sử dụng các mô hình, mẫu vật, thí nghiệm gắn liền với thực tiễn trong dạy học môn LỊCH SỬ – ĐỊA LÍ lớp 6 (Phân môn Địa lí ) nhằm tạo hứng thú cho học sinh 2.Lĩnh vực áp dụng : Bộ môn Lịch Sử - Địa Lí 6 - phân môn Địa lí II. Nội dung biện pháp 1. Mục tiêu, ý nghĩa, sự cần thiết của biện pháp trong quá trình giảng dạy tại đơn vị. 1.1. Sự cần thiết phải áp dụng giải pháp - Trước hết, ta cần hiểu rõ: Về bản chất, Địa lí vừa thuộc lĩnh vực Khoa học – xã hội ( Địa lí kinh tế – xã hội), vừa thuộc lĩnh vực Khoa học tự nhiên ( Địa lí tự nhiên). Như vậy,phân môn Địa Lí là một môn khoa học tự nhiên – xã hội tổng hợp, mang tính chất liên ngành. Dù được xếp vào nhóm môn Khoa học – xã hội nhưng nó không đơn thuần là môn học thuộc lòng mà có sự giao thoa giữa kiến thức tự nhiên và kiến thức kinh tế – xã hội. Trong nhà trường phổ thông, phân môn Địa Lí cung cấp cho HS những kiến thức cơ bản, cần thiết về Trái Đất – môi trường sống của con người trên bình diện thế giới, khu vực và quốc gia. Chính vì vậy, để học tốt môn Địa Lí đòi hỏi học sinh cần phải có tư duy trừu tượng và hiểu biết thực tiễn nhiều. Ngoài ra, môn học Địa lí còn có ý nghĩa nhân văn to lớn, góp phần bồi đắp thêm cho học sinh tình yêu thiên nhiên, yêu con người, cuộc sống. Đồng thời, giáo dục ý thức , trách nhiệm , thái độ , ứng xử đúng đắn với môi trường tự nhiên, xây dựng xã hội, môi trường sống của chúng ta thêm tốt đẹp. Thông qua quá trình học tập môn Lịch sử - Địa lí, không chỉ giúp học sinh hình thành và phát triển năng lực Địa lí – một biểu hiện của năng lực khoa học mà còn góp phần hình thành được phương pháp tư duy, cách vận dụng tri thức Địa lí để giải quyết một số vấn đề thực tiễn trong cuộc sống. 1.2. Thực trạng việc dạy học môn Lịch sử – Địa lí và phân môn Địa lí trước khi áp dụng biện pháp. a. Thuận lợi : - Nhà trường có đội ngũ giáo viên Lịch sử –Địa lí có trình độ chuyên môn tương đối đồng đều, luôn có ý thức tự học, tự bồi dưỡng, nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu công việc. - Cơ sở vật chất của nhà trường được bổ sung, có máy tính, ti vi đặt tại các phòng học có kết nối Internet. b.Khó khăn. Nhưng, thực tế, việc dạy học Địa Lí tại đơn vị chủ yếu vận dụng phương pháp truyền thống truyền đạt thông tin một chiều, ngại đổi mới, sử dụng trang thiết bị và
- phương tiện dạy học cho có chưa phát huy tính tích cực, sợ tốn nhiều thời gian nên chủ yếu dựa vào kênh chữ, thầy hỏi thì trò dựa vào sách giáo khoa trả lời nguyên văn mà chưa có quá trình tư duy, suy luận hay tưởng tượng để tìm ra kiến thức Về phía học sinh: - Ở trường Trung học cơ sở hầu hết học sinh chưa có sự say mê học môn Địa Lí. Khả năng phân tích, so sánh, tổng hợp và tìm hiểu nguyên nhân, bản chất hiện tượng Địa Lí còn hạn chế nhiều. Đối với học sinh cấp THCS, những khái niệm của Địa lí tự nhiên như : Hệ Mặt Trời, Trái Đất, Mặt Trời, núi lửa hay những khái niệm trừu tượng như Hệ thống kinh, vĩ tuyến; cấu tạo Trái Đất; mảng kiến tạo đều rất xa vời và khó hình dung. Vậy thì GV nên biến những sự vật của vũ trụ, thiên nhiên; những sự vật ở những nơi xa xôi ấy thành những thứ gần gũi, quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày của các em một cách sinh động.Thiết nghĩ, sẽ phù hợp hơn với tâm lí lứa tuổi và nhận thức của HS lớp 6. - Còn một nguyên nhân không kém phần quan trọng đó là do tính thực dụng của người học. Chỉ tập chung học những môn dùng để thi như Ngữ Văn, Toán , Anh. Các em cho rằng đây là môn “phụ”, Do vậy các em rất ít chuẩn bị bài trước khi đến lớp, khi vào lớp học rất thụ động, ít tham gia phát biểu ý kiến xây dựng bài. Từ đó việc học của học sinh trở nên gượng gạo, nặng nề, nhàm chán, hiệu quả học tập không cao. Việc học đối phó, miễn cưỡng, học sinh chỉ tiếp thu được lượng kiến thức ít, không hứng thu trong quá trình học, vì thế dẫn đến dễ quên. Kết quả cuối cùng là điểm kiểm tra thấp, hiệu quả học tập chưa cao. Về phía giáo viên : - Có không ít giáo viên giáo cũng xem bộ môn của mình là một môn “phụ” và không trau dồi chuyên môn cũng như quan tâm nhiều tới bộ môn. - Hoặc, một giáo viên được đào tạo 2 phân môn nên trong quá trình công tác , phải dạy 2 phân môn cùng lúc (VD: Văn –Địa ; Văn – Sử ).Vì vậy, trong quá trình dạy học, giáo viên thường tập trung vào môn Văn mà chưa chú ý tìm tòi nhiều biện pháp , kỹ thuật dạy học để tạo hứng thú cho học sinh .Thậm chí, nhiều đơn vị kiến thức của môn Địa lí có sự liên kết với kiến thức liên môn Khoa học – tự nhiên, cho nên nếu chỉ đơn thuần dựa vào kênh chữ trong sách giáo khoa mà không khai thác kênh hình, bản đồ hoặc tìm tòi để đưa thêm tư liệu minh họa, thực hành, thí nghiệm cho bài dạy Địa Lí, ít tạo điều kiện cho học sinh khai thác kiến thức thì chưa đủ để học sinh có hứng thú, vô cùng thụ động trong quá trình tiếp nhận kiến thức và dẫn đến không hiểu bài. Tại đơn vị nhà trường : Việc trang thiết bị, các loại đồ dùng dạy học như : bản đồ, tranh ảnh, mô hình,quả địa cầu còn rất hạn chế hoặc đã cũ. Không còn phù hợp và không đủ để đáp ứng ,phục vụ việc giảng dạy. Điều này đòi hỏi ở bản thân mỗi giáo viên, muốn tăng hứng thú và hiệu quả cho mỗi bài học thì phải có sự tìm tòi thiết bị trực quan trên mạng Internet để trình chiếu lên tivi. Thậm chí, phải hướng dẫn HS và cùng với HS tự làm, sáng tạo ra phương tiện dạy học trực quan bằng việc tự thiết kế các mô hình mô phỏng hay các thí nghiệm mô phỏng từ các vật liệu gần gũi, quen thuộc có trong chính cuộc sống của các em.
- Từ thực tế đó, tôi nhận thấy việc tạo hứng thú cho học sinh khi học thực sự rất cần thiết. Do vậy, tôi đã mạnh dạn suy nghĩ và tích cực áp dụng “Biện pháp sử dụng các mô hình, mẫu vật, thí nghiệm gắn liền với thực tiễn trong dạu học môn Lịch sử – Địa lí lớp 6” trong quá trình giảng dạy để khắc phục những hạn chế nêu trên, nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh. 1.3. Mục tiêu, ý nghĩa của giải pháp - Điều 5.2 Luật Giáo dục chỉ rõ: “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”. Như vậy, muốn phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh thì thầy cô giáo cũng phải chủ động tích cực và sáng tạo. - Chương trình giáo dục phổ thông mới 2018 môn Địa Lí yêu cầu người dạy cần: “đa dạng hóa các phương pháp dạy học, kết hợp linh hoạt các phương pháp dạy học tiên tiến,truyền thống và các phương pháp dạy học đặc thù của môn học như: sử dụng bản đồ, sơ đồ, số liệu thống kê, biểu đồ, tranh ảnh, mô hình, quan sát, thực địa; cải tiến và sử dụng theo hướng phát huy tính tích cực các phương pháp dạy học truyền thống như: thuyết trình, hỏi đáp ”. Vậy thì khi chương trình giáo dục phổ thông mới triển khai, liệu người dạy có đáp ứng yêu cầu hay không? Tôi luôn trăn trở, day dứt trước tình trạng học sinh vào học cứ “ngáp ngắn ngáp dài”, trông đến hết giờ để được “giải phóng”. Chính vì ý nghĩa đó, tôi quyết định vận dụng các phương tiện trực quan một cách sáng tạo và sinh động, hiệu quả nhất vào giảng dạy nhằm những mục đích : - Tiếp cận chương trình giáo dục phổ thông mới 2018. - Qua nghiên cứu và nhận thấy tính hiệu quả của biện pháp trên - một biện pháp dạy học theo xu hướng hiện đại nhằm phát triển năng lực, phẩm chất người học. Tôi đã tiến hành áp dụng biện pháp dạy học này (có kết hợp linh hoạt với các phương pháp, kỹ thuật dạy học khác) vào quá trình giảng dạy một số đơn vị kiến thức trong chương trình phân môn Địa lí 6. Mục tiêu của tôi là: không chỉ dùng các biện pháp trực quan để minh họa cho bài dạy mà quan trọng là để hướng dẫn, tổ chức các hoạt động giúp HS khai thác tri thức một cách hứng thú và hiệu quả hơn. Để mỗi tiết học môn Địa lí, các em cảm thấy thoải mái, hào hứng chứ không phải “cực hình”, chán nản. - Giúp giáo viên và học sinh có cơ hội hiểu nhau hơn, giúp phá tan sự lo lắng, e ngại ban đầu của người học với giáo viên. - Thông qua quá trình các em tự làm , tự chuẩn bị phương tiện trực quan và làm việc theo nhóm các em rèn luyện được : + Một số năng lực chung như: năng lực tự chủ và tự học. Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo; giao tiếp và hợp tác; trình bày, tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau. + Một số năng lực đặc thù như: quan sát và phân tích, so sánh; tìm hiểu Địa lí; tiếp cận với các tình huống thực tiễn, vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để tham gia giải quyết các vấn đề thực tiễn gắn liền với các kiến thức Địa lí , thông qua đó mà HS vận dụng được kiến thức và kĩ năng đã học. + Một số phẩm chất như : đoàn kết, trách nhiệm, tự giác, sáng tạo Tôi muốn cùng các đồng nghiệp chia sẻ với tôi những biện pháp thiết thực, khả thi nhất nhằm mục đích cuối cùng là dạy học lấy học sinh làm trung tâm, đáp ứng yêu cầu cơ bản của mục tiêu giáo dục, người học là chủ thể của hoạt động học, phải tự học, tự nghiên cứu để tìm ra kiến thức bằng hành động của chính mình từ đó tự mình
- tìm ra cái chưa biết, cái cần khám phá, học để hành, hành để học, tức là tìm kiếm kiến thức cho bản thân. Đồng thời tạo sự hứng thú cho học sinh trong học tập phân môn Địa Lí và nâng cao chất lượng môn học nói riêng, chất lượng giáo dục nói chung. 2. Nội dung biện pháp 2. 1: “ Biện pháp sử dụng mô hình, mẫu vật, thí nghiệm gắn liền với thực tiễn ” trong dạy học Địa Lí . - Khổng Tử có câu “Những gì tôi nghe, tôi sẽ quên; những gì tôi thấy, tôi sẽ nhớ; những gì tôi làm, tôi sẽ hiểu”. - Biện pháp sử dụng mô hình, mẫu vật, thí nghiệm gắn liền với thực tiễn là cách thức mà GV sử dụng các phương tiện trực quan làm công cụ hỗ trợ HS hình thành năng lực và phẩm chất. Các loại phương tiện trực quan quen thuộc từ trước đến nay vẫn được GV sử dụng trong dạy học Địa lí như: mẫu vật, mô hình, tranh ảnh, biểu đồ, video GV nghiên cứu chương trình môn học, căn cứ vào yêu cầu cần đạt, xác định nội dung kiến thức có thể sử dụng được mẫu vật, mô hình hoặc thí nghiệm phù hợp để tiến hành và lên kế hoạch dạy học. 2.2 Tiến trình thực nghiệm, ứng dụng sư phạm. Ví Dụ 1: Khi dạy Bài 1: HỆ THỐNG KINH VĨ TUYẾN , TỌA ĐỘ ĐỊA LÍ Tự làm mô hình hệ thống Kinh tuyến, vĩ tuyến trên bản đồ bằng quả Bưởi. - Mục đích: Như đã nói bên trên, các khái niệm Địa lí thuộc Địa lí tự nhiên rất trừu tượng, không thể nhìn thấy bằng mắt. Trên Trái Đất, vốn dĩ thực tế không hề có mạng lưới Kinh tuyến, vĩ tuyến mà hệ thống này là do con người sáng tạo ra với mục đích dễ dàng xác định được vị trí của vật thể dù đang ở bất cứ đâu trên Trái Đất. Nó được thể hiện trên các dạng bản đồ. Hơn nữa, trong điều kiện nhà trường chỉ có 1-2 quả địa cầu, các em không thể quan sát kĩ càng. Vì vậy, để giúp học sinh hình dung được cụ thể các kinh tuyến, vĩ tuyến trên quả địa cầu, xác định được tọa độ của 1 điểm trên quả địa cầu. Tôi tiến hành hướng dẫn HS thực hành vẽ mạng lưới kinh vĩ tuyến trên vật mô phỏng cho quả địa cầu – quả Bưởi. - Chuẩn bị: Lớp chia làm 4 nhóm, mỗi bạn chuẩn bị 1 quả bưởi, 1 bút viết bảng màu đen, 1 bút viết bảng màu đỏ. - Tiến hành trên lớp: GV làm mẫu – HS quan sát, làm theo. Có kết hợp với phương pháp đàm thoại – gợi mở. + Bước 1: Coi quả bưởi là mô hình thu nhỏ của địa cầu. + Bước 2: Đánh dấu cực nam và cực bắc (núm trên và dưới quả bưởi) + Bước 3: Vẽ 1 nửa đường tròn nối từ cực Bắc đến cực Nam bằng bút màu đỏ, (hỏi hs đó là đường kinh tuyến hay vĩ tuyến). Ta coi đây là kinh tuyến gốc. Đánh dấu là 00. + Bước 4: Từ điểm giữa của kinh tuyến gốc, dùng bút màu xanh, hãy vẽ 1 đường tròn bao quanh quả bưởi và vuông góc với đường kinh tuyến gốc vừa vẽ.Ta được đường vĩ tuyến gốc. Đánh dấu là 00 + Bước 5: Căn cứ vào đường kinh tuyến gốc vừa vẽ. Chia nửa trên quả bưởi thành 3 phần bằng nhau và đánh dấu. Tại điểm đánh dấu các phần, vẽ những đường tròn bao quanh quả bưởi giống như đường 00. Ta được đường vĩ tuyến tiếp theo là 300B, 600B. làm tương tự với nửa dưới của quả bưởi, ta vẽ được vĩ tuyến 300N, 600N.
- Tiếp tục làm tương tự với 2 nửa trái và phải của quả bưởi. Từ đường kinh tuyến gốc, chia mỗi nửa thành 6 phần bằng nhau, vẽ các đường kinh tuyến: 300 Đ, 600 Đ, 900 Đ, 1200 Đ, 1500 Đ, 1800 Đ; 300 T, 600 T, 900 T, 1200 T, 1500 T. + Bước 6: HS thảo luận và trả lời vào phiếu học tập. Phiếu học tập có thể đặt các câu hỏi : ? Nếu cứ cách 10 , ta vẽ một đường kinh tuyến và 1 đường vĩ tuyến thì tổng cộng sẽ có bao nhiêu đường kinh tuyến, bao nhiêu đường vĩ tuyến ? ? Đường vĩ tuyến gốc còn được gọi là đường gì ? HS thực hành với mô hình Trái Đất bằng quả Bưởi Sau khi HS rút ra kiến thức về hệ thống kinh, vĩ tuyến. Để thực hành xác định vị trí của một điểm nhờ hệ thống kinh vĩ tuyến. Tôi sử dụng quả địa cầu – mô hình Trái Đất. ? Biết rằng Thủ đô Hà Nội có tọa độ là 21 0B, 1060Đ hãy xác định vị trí đó trên mô hình quả địa cầu- quả Bưởi. - Kết quả: Thông qua thực hành, từ sự quan sát và bắt chước hành vi của GV, mỗi học sinh có cái nhìn trực quan, thực tế, từ đó hiểu và nắm rõ hơn về kinh tuyến, vĩ tuyến. Biết xác định 1 điểm trên quả địa cầu khi có được tọa độ của điểm đó. Ví dụ 2: Khi dạy Bài 7(SGK LS & ĐL 6) - Chuyển động tự quay quanh trục của trái đất và hệ quả. Chúng ta có thể tiến hành các thí nghiệm sau: Thí nghiệm 3: Minh họa chuyển động tự quay quanh trục của Trái Đất và hệ quả chuyển động tự quay quanh trục của Trái Đất sinh ra hiện tượng : Ngày đêm luân phiên. - Mục đích : Trái Đất, Mặt Trời, Dải Ngân Hà là những sự vật tự nhiên rất to lớn và xa xôi. Nếu chỉ dựa vào quan sát hình ảnh trong SGK thì vẫn chưa đủ để HS hiểu được bản chất của hiện tượng.Vì vậy, để giúp học sinh hình dung rõ nét về nguyên nhân vì sao có sự luân phiên ngày và đêm trên Trái Đất, tôi tổ chức thí nghiệm sau: - Chuẩn bị : quả cầu Địa lí, đèn pin, bút viết bảng xóa được. - Tiến hành trên lớp : GV làm mẫu – HS quan sát, làm theo.
- Chia lớp thành các nhóm. GV tắt hết đèn trong phòng, giải thích nguồn ánh sáng từ đèn pin tượng trưng cho Mặt Trời. Quả địa cầu tượng trưng cho Trái Đất. Đánh dấu một điểm A bất kì trên quả Địa Cầu. Quay từ từ quả cầu Địa lí theo chiều từ Tây sang Đông. Em hãy quan sát điểm A lần lượt đi vào và đi ra khỏi vùng được chiếu sáng và trả lời câu hỏi ở phiếu học tập. + Sau khi HS thực hành xong thí nghiệm, tôi kết hợp phương pháp vấn – đáp ;đàm thoại - gợi mở. Yêu cầu HS trả lời câu hỏi : ? Theo em, ban ngày nằm ở vùng nào ? Ban đêm nằm ở vùng nào trên quả địa cầu ? ? Quan sát điểm A, em thấy điểm A di chuyển như thế nào ? - Kết quả: + Trái Đất có dạng khối cầu nên lúc nào cũng chỉ được Mặt Trời chiếu sáng một nửa. Nửa được chiếu sáng là ngày, nửa nằm trong bóng tối là đêm. + Điểm A lần lượt đi vào vùng sáng và vùng tối theo chiều quay của Trái Đất . Điểm A chính là vị trí của vật thể trên Trái Đất, khi Trái Đất tự quay quanh mình nó theo chiều từ Tây sang Đông hết khoảng 24h (1 ngày) thì mọi nơi trên bề mặt Trái Đất đều lần lượt có ngày và đêm luân phiên nhau. HS thực hiện thí nghiệm mô phỏng hiện tượng ngày – đêm luân phiên trên TĐ Đến đây, tôi áp dụng linh hoạt phương pháp Dạy học Giải quyết vấn đề để đặt ra mâu thuẫn như sau : ? Trái Đất chuyển động quanh Mặt Trời theo chiều từ Tây sang Đông nhưng tại sao hàng ngày chúng ta lại thấy Mặt Trời di chuyển trên bầu trời theo hướng từ Đông sang Tây ? Đây cũng là vấn đề có mâu thuẫn mâu đặt ra trong mục Em có biết? GV giao về nhà để các nhóm tìm hiểu và tiết sau trình bày câu trả lời. Ví dụ 3: BÀI CẤU TẠO BÊN TRONG CỦA TRÁI ĐẤT.
- Thực hành tự làm mô hình minh họa cấu tạo bên trong của Trái Đất bằng đất nặn. - Mục đích: Giúp học sinh hình dung được cấu tạo bên trong của Trái Đất. - Chuẩn bị: Lớp chia làm 4 nhóm, mỗi nhóm chuẩn bị 3 thanh đất sét (3 màu đỏ, nâu, vàng); 1 quả chanh, màng bọc thực phẩm. - Tiến hành: Nặn Trái Đất: GV làm mẫu – HS quan sát, làm theo + Bước 1 : Dùng thanh đất màu đỏ, tạo một lớp bọc kín lấy quả chanh.(lớp nhân TĐ). Dùng thanh đất màu vàng tạo một lớp bao quanh thanh màu đỏ.(lớp thứ 2). Dùng thanh đất màu nâu tạo một lớp bao quanh lớp màu vàng. Bên trên cùng nặn hình căn nhà, cây *Lưu ý: Giữa các lớp đất sét, cần phủ lên một lớp màng bọc thực phẩm để tránh các lớp đất dính vào nhau. + Bước 2: Dùng dao bổ nhẹ nhàng một góc quả đất vừa nặn sao cho không bổ vào quả chanh (vì quả chanh chỉ có tác dụng làm cho mô hình TĐ cứng cáp, dễ bao phủ các lớp đất lên nhau , bổ ra sẽ để lộ lần lượt lớp đất màu đỏ, màu vàng, màu nâu) . Hs quan sát và trình bày cấu tạo bên trong của Trái Đất: Lớp vỏ trái đất, man-ti và nhân Trái Đất. - Kết quả: Thông qua thực hành, học sinh có cái nhìn trực quan,cụ thể từ đó hiểu và nắm rõ hơn cấu tạo bên trong của trái đất gồm 3 phần: lớp vỏ mỏng nhất và là nơi con người, sinh vật sinh sống ; lớp man-ti và lớp nhân dày nhất. Sản phẩm của HS Ví dụ 4: Khi dạy Bài 11: Quá trình nội sinh, ngoại sinh. Hiện tượng tạo núi. (SGK LS & ĐL 6). Thí nghiệm : Minh họa về tác động của quá trình nội sinh, nén ép các lớp đất đá tạo ra hiện tượng các lớp đá bị uốn nếp và tạo núi. - Mục đích : Với HS lớp 6, khái niệm “các mảng kiến tạo” thực sự rất khó hình dung và hiểu rõ cho dù có xem hình ảnh trong sách giáo khoa (hình 5/T132). Vì vậy, để
- giúp học sinh hình dung rõ hơn về quá trình nội sinh làm di chuyển các mảng kiến tạo trên bề mặt Trái Đất, các mảng kiến tạo xô vào nhau nén ép các lớp đất đá tạo ra hiện tượng các lớp đá bị uốn nếp và hiện tượng tạo núi.Tôi tổ chức cho HS tiến hành thí nghiệm mô phỏng hiện tượng trên như sau: - Chuẩn bị: + GV chia nhóm và hướng dẫn HS về nhà chuẩn bị mỗi nhóm 2 thanh gỗ dài 20cm rộng 5 cm, dầy khoảng 0,5cm (đây chính là hình ảnh mô phỏng cho các mảng kiến tạo); 1 miếng vải bò (hoặc miếng cao su mềm- săm xe máy) dài 25cm, rộng 5cm (đây là hình ảnh mô phỏng các lớp đất đá ). - Cách tiến hành trên lớp: GV làm mẫu – HS quan sát, làm theo Bước 1: + Để 2 đầu thanh gỗ chạm nhau, đặt miếng vải phủ lên trên điểm tiếp giáp của 2 thanh gỗ, dùng keo đính vải xuống thanh gỗ tại 2 vị trí cách điểm tiếp giáp của 2 thanh gỗ mỗi bên khoảng 4cm. + Bước 2: Dùng 2 tay đẩy 2 thanh gỗ sao cho thanh này trượt trượt lên phía trên của thanh kia (mô phỏng quá trình đứt gãy và dịch chuyển trượt lên nhau của các mảng kiến tạo) .Phần vải giữa 2 thanh gỗ bị dồn lại tạo ra hiện tượng uốn nếp và tạo núi. + HS các nhóm trả lời câu hỏi ở phiếu học tập và rút ra kiến thức. - Kết quả: + Qua thí nghiệm, giúp học sinh dễ hình dung được bản chất của hiện tượng Địa lí từ những đồ vật đơn giản và gần gũi. Từ đó, lĩnh hội tri thức, rèn được các kỹ năng thực hành quan sát, phân tích. Tạo ra được bầu không khí sôi nổi, thoải mái trong tiết học đồng thời hình thành và khắc sâu kiến thức mà các em đã tiếp thu được và cũng giúp các em vận dụng kiến thức liên môn Khoa học – tự nhiên để giải thích các hiện tượng Địa lý, từ đó tạo tiền đề để các em yêu thích môn Địa lý hơn. Thí nghiệm mô phỏng quá trình nội sinh, các địa mảng trượt lên nhau, uốn nếp và tạo núi Ví dụ 5: Khi dạy bài 12 (SGK LS & ĐL 6): Núi Lửa và Động đất. Tự làm mẫu vật, mô hình núi lửa :
- Mục đích: Việt Nam là quốc gia có cấu trúc địa chất khá ổn định nên cả trên đất liền và đại dương đều không có núi lửa đang hoạt động. Vì vậy, để giúp HS có cái nhìn trực quan, tôi đã tiến hành hướng dẫn để HS tự làm một mô hình mô phỏng núi lửa . Đồng thời, thông qua quá trình tự làm để hiểu được cấu tạo của một ngọn núi lửa. Cách tiến hành : - GV chia nhóm, giao việc cho mỗi nhóm tự làm tại nhà một mô hình núi lửa. - GV hướng dẫn HS cách làm mô hình núi lửa từ cuối tiết học trước như sau: + Bước1: Dùng cốc nhựa hoặc cốc giấy xếp thành hình nón. Cố định các cốc với nhau bằng keo nến. Tất cả các cốc đều úp xuống nhưng trong đó, chiếc cốc ở chính giữa phải ngửa miệng lên. Đây chính là nơi dùng để chứa “dung nham” (lò mác- ma). Dùng một chiếc cốc khác úp ngược xuống chiếc cốc ngửa lên, cố định 2 miệng chiếc cốc lại và lấy dao cắt bỏ phần đáy chiếc cốc đó. Mục đích để tạo ra miệng chính của núi lửa và ống phun dòng dung nham. + Bước 2: Dùng vật nhọn chọc thủng những chiếc cốc xung quanh để dung nham có thể từ ống phun và lò mác ma tràn ra ngoài. Mục đích để tạo ra các miệng phụ ở thân núi lửa. + Bước 3: Dán giấy màu xung quanh cốc. Mục đích để che phần cốc nhựa bên trong và làm cho núi lửa sinh động hơn. + Bước 4: Đặt núi lửa vào một cái khay, cố định bằng keo để núi lửa đứng vững. Tận dụng hộp bìa cứng cắt và tô màu. Mục đích để đặt núi lửa, tránh "dung nham" tràn ra ngoài. Đồng thời, tạo khung cảnh về thảm thực vật xanh tốt xung quanh núi lửa do dung nham tràn ra ngoài, khi nguội đi đã làm cho đất đai trở nên phì nhiêu. Xếp cốc thành hình nón và dán giấy màu Bản thân tôi tự làm mô hình núi lửa
- GV cho HS xem video có nội dung đề cập đến sự hoạt động của một núi lửa VD: Video “Núi lửa lớn nhất Thế Giới” – Youtube Nội dung video có lời thuyết minh đề cập đến cấu tạo, nguyên nhân hình thành, tác động tiêu cực và một số tác động tích cực của hoạt động phun trào dung nham khi núi lửa hoạt động. Tôi sử dụng phương pháp vấn – đáp gợi mở, đặt câu hỏi : ? Nêu cấu tạo của núi lửa ? - Kết quả: Từ việc dựa vào hình ảnh SGK và hướng dẫn của GV, HS đã làm được mô hình núi lửa ở nhà. Đến lớp, được xem video trên sẽ hiểu hơn về cấu tạo, các bộ phận của núi lửa. GV hướng dẫn HS tìm hiểu cấu tạo ngọn núi lửa Thí nghiệm : Mô phỏng tác động nội lực gây ra hiện tượng núi lửa phun trào.(các nhóm tiến hành trên lớp) - Mục đích: Giúp học sinh hình dung ra hiện tượng phun trào của núi lửa.
- - Chuẩn bi: Bột banking soda, giấm, màu nước. - Cách tiến hành: GV làm mẫu – HS quan sát, làm theo + Bước 1: Cho banking soda vào trong “lò mác-ma” trong lòng núi lửa. Pha màu nước với giấm vào 1 túi li lông để tạo ra màu đỏ giống dung nham. + Bước 2: Buộc chặt và thả vào bên trong “lò mac-ma”. (Khi nào cần cho núi nửa hoạt động thì dùng que nhọn chọc thủng túi li lông chứa dấm). Giấm tiếp xúc với baking soda đã tạo ra một phản ứng hóa học. Kết quả nó sinh ra nước và khí cacbonic. Carbon dioxide đã hình thành bọt khí núi lửa. Chính vì thế, hiện tượng “phun trào" của núi lửa xuất hiện. HS làm thí nghiệm núi lửa phun trào Sau khi HS thực hành xong thí nghiệm, tôi sử dụng phương pháp vấn – đáp gợi mở, đặt câu hỏi: ? Dựa vào kiến thức của bài trước, nêu nguyên nhân hình thành núi lửa ? Theo em, hiện tượng núi lửa phun trào gây ra những hậu quả gì? - Kết quả: + Thông qua việc HS tự tiến hành thí nghiệm dưới sự hướng dẫn, tổ chức của GV cùng với sự xâu chuỗi kiến thức của bài trước (Bài 11: Quá trình nội sinh, ngoại sinh, hiện tượng tạo núi), HS nhận biết được hiện tượng phun trào của núi lửa và nguyên nhân, hậu quả của hiện tượng trên. 3.Tính mới, tính sáng tạo, tính khoa học của biện pháp. - Trong quá trình dạy học, thay vì việc giáo viên tổ chức cho HS hoạt động thông qua quan sát tranh ảnh SGK Bản thân tôi đã xây dựng kế hoạch cụ thể để tổ chức cho học sinh chiếm lĩnh tri thức thông qua việc sử dụng mô hình, thí nghiệm gắn liền với thực tiễn để thực hiện mục tiêu đổi mới giáo dục, đổi mới phương pháp dạy học. - Trong thực tế giảng dạy ở lớp, khi giáo viên hướng dẫn, học sinh về nhà đọc, nghiên cứu bài mới thì nhiều học sinh không thực hiện hoặc thực hiện ít hiệu quả. Xong, nếu GV hướng dẫn và khuyến khích HS tìm hiểu, chuẩn bị mẫu vật, đổi mới trong kiểm
- tra đánh giá thì các em lại hào hứng thực hiện nhiệm vụ. Trong quá trình chuẩn bị, các em đã nhận biết được bài mới học về nội dung gì, một số ứng dụng, liên hệ trong cuộc sống, từ đó phát triển năng lực, phẩm chất cho HS. - Sử dụng mô hình, thí nghiệm gắn liền với thực tiễn trong giảng dạy có hiệu quả là tiền đề để GV có thể tổ chức dạy học trải nghiệm, dạy học STEM nhằm thực hiện mục tiêu đổi mới giáo dục toàn diện. 4. Hiệu quả đạt được. - Giúp học sinh tập trung và chú ý. Dưới sự hướng dẫn và tổ chức của GV, HS được tự thực hành, khám phá, tự rút ra tri thức. Nhờ vậy, HS có thể nhận diện các khái niệm Địa lí ( nhất là các khái niệm trừu tượng của tự nhiên ) , giải thích các sự vật, hiện tượng Địa lí , các mối quan hệ nhân quả địa lí không chỉ chính xác, đầy đủ mà còn theo cách rất tự nhiên , gần gũi, thoải mái và hứng thú. Rất phù hợp với tâm lí của các em HS lớp 6. - Góp phần hình thành cho HS năng lực tự học, giải quyết vấn đề, một số kỹ năng khai thác thông tin thông qua các thao tác khai thác tri thức từ phương tiện trực quan. - Giúp giáo viên ứng dụng, công nghệ thông tin một cách hiệu quả hơn. - Thúc đẩy việc nghiên cứu, ứng dụng phương pháp dạy học tích cực trong giảng dạy. Thúc đẩy tính sáng tạo của GV trong việc tự làm đồ dùng dạy học, phương tiện trực quan trong dạy học mang lại những đổi mới, sáng tạo trong dạy và học. Các bảng số liệu, biểu đồ so sánh kết quả trước và sau khi thực hiện giải pháp. * Kết quả hứng thú học tập bộ môn: Tổng số học Rất hào Bình Không hào Hào hứng sinh hứng thường hứng Trước khi thực hiện 6 giải pháp 98 30 52 10 Sau khi áp dụng giải 98 39 35 19 5 pháp * Kết quả học tập của học sinh: Năm học Tổng Giỏi Khá Trung bình Yếu 2022-2023 số HS Số Số Số Số Trước thực % % % % 98 lượng lượng lượng lượng hiện giải pháp 6 6.1 30 30.6 52 53.1 10 10.2 Sau khi áp dụng giải 98 39 39.8 35 35.7 19 19.4 5 5.1 pháp Tăng giảm tỷ lệ (%) Tăng 33.7 Tăng 5.1 Giảm 33.7 Giảm 5.1
- * Kết quả giảng dạy của giáo viên: Phạm vi áp dụng giải pháp . - Áp dụng trong giảng dạy môn Lịch sử &Địa lí 6 (phần Địa lí) trường THCS Xuân Hòa và thu được kết quả như đã trình bày ở trên. - Giải pháp không chỉ áp dụng đối với bộ môn Lịch sử &Địa lí 6 (phần Địa lí) ” mà còn có thể vận dụng vào bộ môn Lịch sử &Địa lí các khối lớp khác cũng như nhiều bộ môn khác để giúp học sinh hứng thú, vui vẻ học tập. Giải pháp này có thể nhân rộng trong phạm vi giáo dục ở nhiều cấp học. IV. Cam kết . Tôi cam kết biện pháp này được dùng lần đầu để tham dự Hội thi và chưa được dùng để xét duyệt thành tích của cá nhân tôi trước đây. XÁC NHẬN CỦA LÃNH ĐẠO Xuân Hòa, ngày 30 tháng 9 năm 2023 NHÀ TRƯỜNG ( Lời xác nhận, họ tên, chữ ký, đóng dấu) Giáo viên ( Họ tên, chữ kí ) Trần Thị Ngọc Bích