SKKN Một số phương pháp dạy học giúp học sinh chủ động lĩnh hội kiến thức và yêu thích môn Vật lý ở trường THCS
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số phương pháp dạy học giúp học sinh chủ động lĩnh hội kiến thức và yêu thích môn Vật lý ở trường THCS", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
skkn_mot_so_phuong_phap_day_hoc_giup_hoc_sinh_chu_dong_linh.docx
Nội dung tài liệu: SKKN Một số phương pháp dạy học giúp học sinh chủ động lĩnh hội kiến thức và yêu thích môn Vật lý ở trường THCS
- UỶ BAN NHÂN DÂN HUYỆN VỤ BẢN TRƯỜNG THCS NGUYỄN PHÚC BÁO CÁO SÁNG KIẾN MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC GIÚP HỌC SINH CHỦ ĐỘNG LĨNH HỘI KIẾN THỨC VÀ YÊU THÍCH MÔN VẬT LÝ Ở TRƯỜNG THCS Vật lý(04)/ THCS Tác giả: Nguyễn Thị Minh Nguyệt Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm Vật lý Chức vụ: Giáo viên Nơi công tác: Trường THCS Nguyễn Phúc Vụ Bản, ngày 13 tháng 5 năm 2023 Vụ Bản, ngày 18 thán 04 năm 2022
- THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN 1. Tên sáng kiến: Một số phương pháp dạy học giúp học sinh chủ động lĩnh hội kiến thức và yêu thích môn vật lý ở trường THCS 2. Lĩnh vực (mã)/cấp học: Vật lý(04)/THCS 3. Thời gian áp dụng sáng kiến: Từ ngày 01 tháng 10 năm 2022 đến ngày 04 tháng 5 năm 2023 4. Tác giả: Họ và tên: Nguyễn Thị Minh Nguyệt Năm sinh: 26/03/1986 Nơi thường trú: Thôn Tam Giáp- Liên Minh- Vụ Bản- Nam Định. Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm Vật lý Chức vụ công tác: Giáo viên Nơi làm việc: Trường THCS Nguyễn Phúc Điện thoại: 0968 720 666. Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến: 100% 5. Đơn vị áp dụng sáng kiến: Tên đơn vị: Trường THCS Nguyễn Phúc Địa chỉ: Liên Minh- Vụ Bản- Nam Định Điện thoại: : 02283820066
- 1 BÁO CÁO SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM I. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN 1. Lý do chọn đề tài Thực hiện chung nhiệm vụ của toàn ngành là đổi mới nội dung, hình thức, đặc biệt là đổi mới phương pháp dạy học giúp học sinh chủ động lĩnh hội kiến thức nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy và học tập. Vì vậy việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động của nhiều đối tượng học sinh trong một lớp học (HS là chủ thể của việc lĩnh hội kiến thức, còn giáo viên là người chủ đạo trong việc tổ chức, hướng dẫn cho việc lĩnh hội kiến thức của học sinh, đặc biệt là những học sinh yếu kém) thì vai trò của người giáo viên càng trở nên quan trọng trong việc chủ động tổ chức, điều khiển một giờ học với nhiều đối tượng học sinh. Việc lên lớp thực hiện với một tiết dạy nói chung và một tiết dạy Vật lí với nhiều đối tượng học sinh nói riêng phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Công tác soạn bài, kiến thức của giáo viên, phương pháp dạy học, đối tượng học sinh, phương tiện dạy học Do đó, để tổ chức một tiết dạy có hiệu quả cho nhiều đối tượng học sinh nhưng vẫn đáp ứng đủ yêu cầu về nội dung, kiến thức, thời gian mà tất cả các đối tượng học sinh cũng đều nắm được thì giáo viên với vai trò là người chủ đạo hướng dẫn cần thực hiện có hiệu quả một số khâu cho một tiết dạy học gồm nhiều đối tượng học sinh. Vậy một số khâu cần thiết để thực hiện tốt một tiết dạy cho nhiều đối tượng học sinh có chất lượng là gì? Đây là một câu hỏi đặt ra cho mỗi giáo viên nói chung và giáo viên giảng dạy bộ môn Vật lí nói riêng. Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài “Một số phương pháp dạy học giúp học sinh chủ động lĩnh hội kiến thức và yêu thích môn vật lý ở trường THCS” để nghiên cứu, mạnh dạn đưa những vấn đề này cho anh chị em đồng nghiệp tham khảo giúp đỡ tôi làm tốt hơn công việc này. 2. Mục đích của sáng kiến - Với phương pháp dạy học giúp học sinh chủ động lĩnh hội kiến thức nhằm tạo ra các hoạt động nhận thức trong dạy học lấy học sinh làm trung tâm, làm chủ thể của việc nhận thức với sự hướng dẫn giúp đỡ giảng dạy tích cực có hiệu quả của giáo viên và việc học tập tích cực, tự giác, sáng tạo của học sinh phát triển trí tuệ và năng lực sáng tạo của học sinh trong học tập. - Từ đó giúp học sinh yêu thích môn học, luôn có hứng thú học tập chủ động tiếp thu kiến thức, tích cực trong các hoạt động. - Nâng cao hơn nữa về chất lượng dạy và học đặc biệt là tăng tỉ lệ học sinh khá giỏi giảm dần tỷ lệ học sinh yếu kém, giúp các em chủ động học hỏi, tìm tòi kiến thức mới. 3. Phương pháp nghiên cứu - Tham khảo trên internet, học tập mođun 2.
- 2 II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP 1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến a) Đặc điểm tình hình chung * Thuận lợi - Đối với Ban lãnh đạo nhà trường luôn chỉ đạo sát đúng về kế hoạch chuyên môn đồng thời tạo mọi điều kiện thuận lợi cho đội ngũ giáo viên thực hiện có hiệu quả đối với công tác bồi dưỡng học sinh giỏi cũng như phụ đạo học sinh yếu kém. - Đối với giáo viên thực hiện nghiêm túc và gương mẫu trong việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh cho nên luôn nhiệt tình, tận tụy, say mê và luôn lo lắng tìm tòi học hỏi, tự bồi dưỡng để đáp ứng yêu cầu của công tác giảng dạy theo chương trình mới và giải quyết cho bài toán chất lượng hiện nay mà nhà trường quan tâm hàng đầu đó là nâng cao chất lượng học sinh giỏi, số học sinh yếu kém giảm dần. - Đối với học sinh yêu thích môn học, luôn có hứng thú học tập chủ động tiếp thu kiến thức, tích cực trong các hoạt động. * Khó khăn - Điều kiện cơ sở vật chất phục vụ cho học tập còn thiếu thốn, chưa đáp ứng được yêu cầu học tập của các em. - Khả năng tư duy nhận thức của các em còn hạn chế, kỹ năng chưa được tốt, một số em học sinh bị hổng kiến thức từ cấp học dưới nên không ham học còn thờ ơ với việc học tập. - Một số em có tính nhút nhát nếu đi học thì đến lớp ngồi yên, lâu ngày các em trở nên lầm lì, không tích cực trong học tập. Một số em chưa nhận thức đúng đắn được vai trò, trách nhiệm của bản thân trong học tập. - Một số em có hoàn cảnh gia đình khó khăn, bố mẹ bỏ nhau không có trách nhiệm với con cái. Một số em thì quá hiếu động không nghiêm túc trong học tập. - Đối với phụ huynh học sinh thì chưa quan tâm đến việc học tập của con em, chưa đầu tư cho các em học tập còn giao khoán cho nhà trường nên một bộ phận học sinh đã không chú ý tới việc học tập. b. Thực trạng Về đổi mới phương pháp dạy học môn vật lý là vấn đề cấp bách của thời đại đối với chúng ta. Ngày nay sự đổi mới phương pháp dạy học là sự sống của giáo dục Việt Nam. Vì trước những bước tiến của nhân loại, đất nước ta đang đổi mới nền kinh tế để hoà nhập với thế giới hiện đại. Do vậy việc đổi mới phương pháp dạy học là không thể thiếu được trong nhà trường hiện nay. Dạy học, lấy học sinh làm trung tâm là cốt lõi của việc đổi mới phương pháp dạy học. Có như vậy thì mới phát huy được năng lực. Năng lực đó phải được đào tạo và rèn luyện thành thói quen, phải được hình thành từ nhà trường phổ thông cũng như của môn khoa học tự nhiên khác. Vì môn Vật lý là môn khoa học thực nghiệm nó là cơ sở cho
- 3 nhiều ngành kỹ thuật, các máy móc được chế tạo dựa trên các thành tựu vật lý: Động cơ ô tô, máy bay được chế tạo dựa vào kiến thức về nhiệt, Máy phát điện, động cơ điện, vô tuyến truyền hình được chế tạo dựa trên kiến thức về điện những thành tựu của vật lý và kỹ thuật. Từ thực tế giáo dục hiện nay phục vụ rất nhiều cho cuộc sống của con người trên mọi mặt. Vì vậy việc đổi mới phương pháp trong dạy học vật lý là không thể thiếu được. Việc phấn đấu cho học sinh tự tìm tòi, tự hiểu biết để phát triển, khai thác, hưởng thụ những thành quả lao động vẫn chưa tự bỏ cách giáo dục mang tính thực dụng. Không ít giáo viên chỉ chăm lo cung cấp cho học sinh những kiến thức cần thiết để các em làm bài điểm cao mà không chú ý phát huy trí lực của học sinh, không quan tâm đến việc rèn luyện trí thông minh, sáng tạo của học sinh. Điều này nguy hại là sau khi học xong các hiện tượng vật lý và các định luật về vật lý một số em lại không biết vận dụng các hiện tượng, định luật đó vào để giải thích một số hiện tượng về khoa học tự nhiên và không chỉ ra được ứng dụng rộng rãi của nó trong khoa học kỹ thuật. Để đào tạo ra thế hệ trẻ thành người lao động làm chủ đất nước, có trình độ văn hoá cơ bản, đáp ứng những yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Những con người có trí tuệ và năng lực sáng tạo, có phẩm chất đạo đức, tư tưởng tốt. Những con người như vậy phải được rèn luyện trong quá trình đào tạo và tự tạo. Để đạt được mục tiêu đó thì trong giảng dạy ở nhà trường THCS điều quan trọng nhất là phát triển trí tuệ và năng lực sáng tạo của học sinh trong học tập. Hoạt động nhận thức trong dạy học lấy học sinh làm trung tâm, làm chủ thể của việc nhận thức với sự hướng dẫn giúp đỡ giảng dạy tích cực có hiệu quả của giáo viên và việc học tập tích cực, tự giác, sáng tạo của học sinh. 2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến Đến nay qua một thời gian áp dụng phương pháp này, việc vận dụng, triển khai học hỏi, thảo luận, sinh hoạt chuyên môn, thao giảng GV đã vững vàng hơn và có phướng pháp dạy học linh hoạt hơn và đã phù hợp với từng đối tượng học sinh cho nên HS đã dần hình thành phương pháp học tập mới đặc biệt là đối tượng học sinh yếu kém, nên một số tiết dạy đạt kết quả khá cao và thành công nhiều hơn. Giáo viên chủ động hơn trong điều hành, làm việc ít hơn với từng đối tượng học sinh. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng học sinh khá giỏi giảm dần tỉ lệ học sinh yếu kém và học sinh ngồi nhầm lớp thì đối với giáo viên, ngay trong từng tiết học cần thực hiện một số giải pháp cần thiết sau đây 2.1. Giải pháp thiết kế bài dạy chu đáo, phù hợp với nhiều đối tượng học sinh Công việc thiết kế chu đáo trước một bài dạy và phù hợp với nhiều đối tượng là khâu quan trọng không thể thiếu của một tiết dạy học mà bất kì một giáo viên nào cũng phải biết. “Thiết kế trước bài dạy giúp giáo viên chuẩn bị chu đáo
- 4 hơn về kiến thức, kĩ năng, phương pháp, tiến trình và tâm thế để đi vào một tiết dạy” Vậy làm thế nào để thiết kế một bài dạy hay và phù hợp hay nói cách khác để thiết kế tốt một bài dạy nhưng phải đảm bảo cho nhiều đối tượng học sinh thì cần phải làm được những gì? Cho nên để thiết kế một bài dạy phù hợp cho nhiều đối tượng học sinh thì tối thiểu nhất phải làm được những việc sau: - Xác định được mục tiêu trọng tâm của bài học về kiến thức, kĩ năng, thái độ, tình cảm. - Tìm ra được những kiến thức cơ bản dành cho học sinh yếu kém và kiến thức nâng cao cho học sinh khá giỏi. - Khi đã nắm được trọng tâm được kiến thức và phân chia kiến thức cho từng đối tượng học sinh thì cần tham khảo thêm tài liệu để mở rộng và đi sâu hơn vào bản chất của đơn vị kiến thức, giúp giáo viên nắm một cách tổng thể, để giải thích cho học sinh khi cần thiết. - Nắm được ý đồ của sách giáo khoa để xây dựng và thiết kế một tiến trình đi trong giờ dạy hợp lý, đồng thời cũng có thể ý đồ đó thành ý đồ chủ quan của mình cho phù hợp với tình hình thực tế của nhà trường, lớp, đối tượng và trình độ học sinh, điều kiện dạy học - Chuẩn bị chu đáo phương tiện dạy học . - Nêu được các tình huống có vấn đề để kích thích tính tích cực của học sinh. - Đưa ra những câu hỏi và thời gian thích hợp để quan tâm đến đối tượng học sinh yếu kém. Tạo nhiều cơ hội cho học sinh yếu kém hoạt động để các em lấy được phương pháp học tập. - Đề ra được các phương án giải quyết để đi đến kiến thức cơ bản của bài học với sự hỗ trợ của nhiều đối tượng học sinh mà không chỉ nhờ vào một bộ phận học sinh khá giỏi. - Cuối cùng làm hoàn chỉnh một tiến trình của một giờ dạy học với đầy đủ các hoạt động và thời gian ấn định phù hợp. Nếu thực hiện tốt những việc này xem như giáo viên đã chuẩn bị tốt tâm thế để bước vào giờ dạy và đã thành công bước đầu. 2.2. Giải pháp tiếp xúc và chuẩn bị trước thiết bị dạy học Đây là một khâu không trực tiếp làm ngay trong một tiết học, nhưng nó là khâu cũng không kém phần quan trong. Việc tiếp xúc, chuẩn bị trước thiết bị dạy học giúp giáo viên chủ động biết được thiết bị nào đã có, tình trạng sử dụng như thế nào, cần điều chỉnh gì, thiết bị nào còn thiếu cần bổ sung như thế nào và phương án bổ sung, khắc phục ra sao? Khi tiếp xúc với thiết bị dạy học giáo viên có điều kiện phân công dụng cụ cho từng nhóm học sinh, từng đối tượng học sinh do đó nó giảm bớt rất nhiều thời gian trong giờ dạy giành thời gian hướng dẫn cho học sinh yếu kém thực hiện.
- 5 Nhưng quan trọng trong khâu này là khi tiếp xúc và chuẩn bị trước thiết bị thì giáo viên có điều kiện thao tác thành thạo các kỹ năng cần thực hiện trong khi làm thí nghiệm. Điều này thực sự rất có ích cho giáo viên, bởi giáo viên có làm thành thạo các thao tác mới có thể hướng dẫn học sinh một cách rành mạch, rõ ràng không còn lúng túng và giảm bớt nhiều động tác thừa và thời gian lãng phí. Do đó khi tiếp xúc và chuẩn bị trước thiết bị, giáo viên cần làm được những việc sau: - Kiểm tra thiết bị (đủ hay thiếu) tình trạng sử dụng để đưa ra phương án bổ sung. - Phân chia được thiết bị sử dụng theo nhóm cho từng đối tượng học sinh. - Đưa ra những công việc cho từng đối tượng học sinh thực hiện như: (HS yếu kém quan sát, ghi chép và làm các thao tác đơn giản, còn HS khá giỏi thao tác các thao tác khó .) - Giáo viên làm trước thí nghiệm và thực hiện các thao tác một cách thành thạo. 2.3. Giải pháp điều hành tổ chức hoạt động của học sinh trên lớp - Việc thiết kế tốt một bài dạy và phù hợp với từng đối tượng học sinh xem như đã thành công một nữa nhưng đó chỉ là xem như bước khởi đầu cho một tiết dạy còn khâu quyết định thành công chính là ở khâu tổ chức điều khiển các đối tượng học sinh trên lớp. Nhưng để điều hành tốt tất cả các đối tượng học sinh trong một giờ học thì giáo viên cần phải thực hiện như thế nào? - Việc đầu tiên và quan trọng nhất là giáo viên phải nghiên cứu giáo án một cách thuần thục, nắm được các nội dung cơ bản trọng tâm của bài học và những nội dung chú ý đối với học sinh yếu kém. - Tạo tình huống có vấn đề ngay từ đầu để kích thích hứng thú học tập của học sinh trong suốt giờ học. Nắm chắc kiến thức sách giáo khoa và hướng dẫn sách giáo viên, mục tiêu bài học, trình tự thiết kế giáo viên chủ động đưa ra phương án cho các đối tượng học sinh hoạt động. Ví dụ: * Đối với việc thu thập thông tin, tùy đối tượng học sinh, thời gian giáo viên có thể cho các phương án - Giáo viên thông báo Đối với học sinh khá giỏi học sinh chủ động lĩnh hội kiến thức. Đối với học sinh yếu, kém: Giáo viên gợi ý học sinh lĩnh hội kiến thức. * Đối với yêu cầu thực hiện kỹ năng, kiến thức thì cũng tuỳ theo thời gian và yêu cầu của nội dung bài học hoặc từng phần hay yêu cầu của từng loại thí nghiệm giáo viên có thể tổ chức học sinh thực hiện theo nhóm hay cá nhân như
- 6 Bài 3: Đo thể tích chất lỏng (KHTN 6 ) Hình 3.2: Yêu cầu học sinh hoạt động theo cá nhân (nhưng chú ý tới học sinh yếu kém) nếu học sinh không đo và đọc được kết quả thì giáo viên hướng dẫn học sinh đo và cách đọc sau đó cho học sinh trả lời kết quả. Hình 3.3: Yêu cầu học sinh hoạt động theo nhóm (nhưng chú ý là cho học sinh khá giỏi hướng dẫn và kèm các học sinh yếu kém) sau đó gọi học sinh yếu kém đọc kết quả, rồi cho học sinh khá giỏi nhận xét, giáo viên chốt kiến thức. Còn tuỳ theo đối tượng học sinh trong lớp giáo viên có thể đề ra phương án khác nhau cho linh hoạt. + Đối với học sinh yếu kém: Thì giáo viên cho học sinh đọc sách giáo khoa, giáo viên hướng dẫn cụ thể, tổ chức cho học sinh thảo luận và thực hiện và rút ra kết quả. Đối với học sinh khá giỏi: giáo viên cho học đọc sách giáo khoa, đề ra phương án thực hiện trả lời câu hỏi có tính chất khó hơn sau đó giáo viên chốt kiến thức. Sau đó giáo viên gọi học sinh yếu kém nhắc lại một lần để các em ghi nhớ. Hoặc tuỳ từng loại thí nghiệm hay trả lời câu hỏi hoặc bài tập giáo viên có thể tổ chức cho học sinh làm ngay ở lớp hoặc cho về nhà tự làm nhưng đối với học sinh yếu kém thì giáo viên đưa ra yêu cầu nhẹ hơn. * Đối với cách đặt câu hỏi yêu cầu học sinh thực hiện hay trả lời câu hỏi thì giáo viên cũng cần chú ý đến các đối tượng học sinh để đưa ra câu hỏi phù hợp để học sinh dễ hiểu và trả lời đạt kết quả cao như - Đối với học sinh khá giỏi: Giáo viên đưa ra câu hỏi có tính chất nêu vấn đề hay xuyên suốt để các em suy nghĩ trả lời. - Đối với học sinh trung bình. Giáo viên đưa ra câu hỏi có hướng giải quyết và có tính chất dẫn dắt học sinh. - Đối với học sinh yếu kém thì giáo viên phải đưa ra được các câu hỏi gợi ý có tính chất tường minh, cụ thể hoặc các yêu cầu rõ ràng và nhẹ nhàng hơn. Như vậy tuỳ theo yêu cầu kiến thức, kĩ năng, từng loại câu hỏi hay tuỳ vào từng loại đối tượng học sinh giáo viên chủ động đề ra phương án tổ chức điều hành cho linh hoạt và phù hợp. - Trong việc điều hành tổ chức các hoạt động của học sinh trên lớp giáo viên cũng cần quan tâm và chú ý đến việc tổ chức và sắp xếp vị trí chỗ ngồi cho học sinh hoạt động theo nhóm có hiệu quả như: Để học sinh khá giỏi kèm cặp giúp đỡ được các học sinh yếu kém, tránh tình trạng mất nhiều thời gian và lộn xộn tạo được tác phong và phương pháp học tập hợp tác, từ đó giáo viên cũng có được phương pháp tổ chức quản lí hoạt động nhóm một cách phù hợp. Tóm lại: Khâu điều hành tổ chức hoạt động của học sinh trên lớp là khâu rất quan trọng nó quyết định thành công hay thất bại của giờ học và cũng quyết định đến chất lượng của học sinh, đặc biệt là đối tượng học sinh yếu kém. Vì vậy giáo viên cần bám sát thiết kế, thiết bị, tình hình và đối tượng học sinh trong lớp để chủ động và linh hoạt trong điều hành.
- 7 2.4. Giải pháp đánh giá và theo dõi kết quả học tập theo từng đối tượng học sinh Việc đánh giá và theo dõi kết quả học tập theo từng đối tượng học sinh phải diễn ra thường xuyên liên tục và quan trọng nhất là đối tượng học sinh yếu kém. Như kiểm tra bài cũ, kiểm tra 15 phút, chấm vở học sinh, sản phẩm học tập, hồ sơ học tập, kiểm tra định kỳ Tuy nhiên việc thực hiện đánh giá kết quả học tập của học sinh sau mỗi bài dạy cũng có tầm quan trọng rất đáng kể: Nó vừa củng cố, khắc sâu kiến thức vừa tiếp thu được kiến thức mới, đồng thời khuyến khích động viên học sinh, kích thích hứng thú cho các em về nhà và làm bài tập cũng như tạo được sự hào hứng cho các em chờ đợi cho tiết học tiếp theo và giúp đỡ học sinh yếu kém có được tinh thần học tập tốt hơn và ngày càng yêu thích môn học, lấp dần các kiến thức đã hỏng của các em. Do đó tôi nhận thấy việc đánh giá kết quả học tập của học sinh sau mỗi tiết học và thường xuyên rất quan trọng và cần thiết. Vậy đánh giá kết quả học tập của học sinh như thế nào là tích cực và phát huy được tác dụng của nó đối với học sinh yếu kém, theo tôi giáo viên cần phải thực hiện theo các yêu cầu sau - Giáo viên có thể đánh giá thực hiện bằng các hình thức như + Kiếm tra bài cũ Đối với học sinh yếu kém thì giáo viên yêu cầu rõ ràng hơn, chi tiết hơn, gợi mở hơn. Nếu học sinh trả lời được thì giáo viên cho điểm cao hơn để động viên, còn học sinh trả lời không được thì giáo viên hướng dẫn, nhắc nhở và quan tâm đến học sinh nhiều hơn trong các câu hỏi của bài học mới. + Ghi phiếu học tập hoặc phân nhóm tổ chức trò chơi về kiến thức. Đối với học sinh yếu kém thì giáo viên đánh giá với mức độ và yêu cầu thấp hơn, và chỉ rõ những thiếu sót của các em một cách rõ ràng hơn, chi tiết hơn tránh tình trạng nhận xét chung chung để học sinh không nhận ra được thiếu sót của mình để khắc phục. III. Hiệu quả do sáng kiến đem lại 1. Hiệu quả về mặt kinh tế - Khi áp dụng sáng kiến học sinh nhanh chóng tìm ra phương pháp học tập môn Vật lý, mất ít thời gian để giải bài tập hơn, say mê yêu thích môn học hơn. - Học sinh biết vận dụng các kiến thức Vật lý vào đời sống thực tiễn. 2. Hiệu quả mặt xã hội - Là giáo viên giảng dạy bộ môn vật lý tôi luôn học hỏi, tìm tòi, áp dụng các biện pháp trên vào trong từng tiết dạy chất lượng học tập bộ môn vật lí được phân công giảng dạy đạt kết quả khá cao tỉ lệ học sinh yếu kém bộ môn Vật lí ngày càng giảm. - Sau khi áp dụng sáng kiến các em đã tự giác hơn, chủ động lĩnh hội kiến thức, sáng tạo, tìm tòi những cái mới và đặc biệt rất yêu thích môn học.
- 8 - Kết quả đạt được sau khi áp dụng sáng kiến( Kết quả thi khảo sát cuối học kì I và cuối năm học 2022-2023). Lớp 8A có 36 học sinh Chất lượng Cuối học kì I Cuối năm Học sinh giỏi 13 HS = 36,1% 23 HS = 63,9% Học sinh khá 19 HS = 52,8% 8 HS = 22,2% HS trung bình 4 HS = 11,1% 5 HS = 13,9% Học sinh yếu 0 HS = 0,0% 0 HS = 0,0% Cộng 36 HS = 100% 36 HS = 100% 3. Khả năng áp dụng và triển khai kết quả của sáng kiến - Có khả năng ứng dụng trong môi trường giáo dục cụ thể ở các trường THCS. - Sáng kiến này áp dụng với giáo viên giảng dạy nói chung và giáo viên dạy môn Vật lý nói riêng. 4. Kiến nghị đề xuất Từ kết quả nghiên cứu trên, để góp phần nâng cao hiệu quả dạy và học trong công tác giáo dục toàn diện cho học sinh nhằm đáp ứng yêu cầu của đất nước là đào tạo ra thế hệ trẻ thành những người lao động mới “ Vừa hồng, vừa chuyên”. Hơn bao giờ hết, dạy thật, học thật là một yêu cầu bắt buộc cho tất cả các trường học trên toàn quốc. Việc thực hiện nghiêm túc cuộc vận động này, tất yếu chất lượng văn hoá sẽ giảm sút so với chỉ tiêu những năm trước. Học sinh từng bước lên lớp bằng những hiểu biết thực chất của mình là vấn đề ưu tiên số một. Những ý kiến trên của bản thân qua áp dụng phương pháp dạy học đổi mới. Không ngoài mục đích nâng cao chất lượng đào tạo, giảm dần tỷ lệ học sinh yếu kém. Với tầm nhìn hạn chế và kinh nghiệm còn chưa nhiều, chắc chắn rằng bài viết vẫn còn nhiều thiếu sót, kính mong các thầy, cô giáo, bạn bè đồng nghiệp góp ý kiến bổ sung nhằm thực hiện tốt hơn bài toán nâng cao chất lượng dạy và học. Để có được những phương pháp dạy học, giải quyết tình huống khoa học phù hợp với tình hình thực tế tại trường THCS và đạt kết cao, bản thân tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu nhà trường và tập thể các thầy cô giáo trường THCS Nguyễn Phúc đã giúp tôi hoàn thành sáng kiến này. IV. Cam kết không sao chép hoặc vi phạm bản quyền. Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. TÁC GIẢ SÁNG KIẾN Nguyễn Thị Minh Nguyệt
- CƠ QUAN ĐƠN VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN (xác nhận, đánh giá, xếp loại) PHÒNG GD&ĐT (xác nhận, đánh giá, xếp loại)
- TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lí luận dạy học môn Vật Lý: NXB giáo dục. 2. Các kỹ thuật dạy học và phương pháp dạy học: NXB giáo dục . 3 . Một số vấn đề về đổi mới phương pháp dạy học môn Vật Lý THCS: NXB giáo dục. CÁC PHỤ LỤC STT Tên đề mục Trang 1 Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến. 2 Mô tả giải pháp. 2 3 Hiệu quả do sáng kiến đem lại. 7 4 Cam kết không sao chép hoặc vi phạm bản quyền 8