Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp dạy học nhằm nâng cao hiệu quả môn Ngữ văn 6
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp dạy học nhằm nâng cao hiệu quả môn Ngữ văn 6", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_phuong_phap_day_hoc_nham_nang_c.docx
Nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp dạy học nhằm nâng cao hiệu quả môn Ngữ văn 6
- PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO XUÂN TRƯỜNG TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ XUÂN THÀNH BÁO CÁO SÁNG KIẾN MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ MÔN NGỮ VĂN 6 Tác giả: VŨ THỊ THẮM Trình độ chuyên môn: Đại học Sư phạm Ngữ văn Chức vụ: Giáo viên Nơi công tác: Trường THCS Xuân Thành. Xuân Trường, ngày 15 tháng 04 năm 2019 1
- THÔNG TIN CHUNG 1. Tên sáng kiến: Một số phương pháp dạy học nhằm nâng cao hiệu quả môn Ngữ văn 6 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giảng dạy môn Ngữ văn 6 3. Thời gian áp dụng sáng kiến: Từ ngày 20/8/2016 đến ngày 20/8/2018 4. Tác giả: Họ và tên: Vũ Thị Thắm Năm sinh: 1979 Nơi thường trú: Xóm 1 – Xuân Phong – Xuân Trường – Nam Định Trình độ chuyên môn: Đại học Sư phạm Ngữ văn Chức vụ công tác: Giáo viên Nơi làm việc: Trường THCS Xuân Thành – Xuân Trường – Nam Định Điện thoại: 0972433062 Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến: 100% 5. Đồng tác giả (nếu có): 6. Đơn vị áp dụng sáng kiến: Tên đơn vị: Trường THCS Xuân Thành Địa chỉ: Xã Xuân Thành – Huyện Xuân Trường – Tỉnh Nam Định Điện thoại: 03503.888054 2
- BÁO CÁO SÁNG KIẾN I. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN. Trong chương trình Trung học cơ sở, môn Ngữ văn là một trong những môn Khoa học xã hội có vai trò rất quan trọng. Môn học này tác động rất sâu sắc đến đời sống tình cảm, tâm hồn của mỗi con người. Nó hướng con người đến đỉnh cao của chân, thiện, mỹ. Đại thi hào văn Nga, Mắc xim Gocki từng viết: “Văn học giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân và làm nảy nở con người khát vọng hướng đến chân lý”. Văn học “chắp đôi cánh” để các em đến với mọi thời đại văn minh, để vươn tới tương lai với ước mơ, hoài bão, lý tưởng cao đẹp. Để đạt được mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục trong nhà trường Trung học cơ sở đáp ứng yêu cầu cấp học, vai trò của người thầy trong việc giảng dạy là vô cùng quan trọng, quyết định cho việc tiếp thu nắm vững kiến thức đến từng học sinh. Người thầy phải có phương pháp dạy học đúng dắn, phù hợp với từng phân môn, từng bài, từng đối tượng học sinh để đạt được kết quả tốt nhất trong việc dạy và học của thầy và trò. Ngày nay, nước ta đã và đang phát triển theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước mà công nghệ thông tin được đặt lên hàng đầu. Vì vậy, yêu cầu cần phát triển nguồn nhân lực trong cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế là vấn đề cần thiết. Do đó vấn đề dạy học theo hướng hiện đại đang đòi hỏi người dạy học và người học phải tìm tòi sáng tạo để chiếm lĩnh những tri thức để đáp ứng những nhu cầu phát triển xã hội. Vì vậy, đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng tích cực hóa được đặt ra do yêu cầu đổi mới giáo dục, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển nhân lực cho đất nước trong giai đoạn hiện nay là rất cần thiết. Đối với việc giảng dạy môn ngữ văn cần căn cứ vào đặc trưng vào sự vận dụng các phương pháp dạy học của từng phân môn: Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn. Chương trình sách giáo khoa Ngữ văn tuy được xây dựng theo hướng tích hợp nhưng không phủ nhận đặc trưng riêng của từng phân môn dạy trong quá trình giảng dạy. Nhưng muốn đạt điều đó, người giáo viên phải có phương pháp vững vàng, có tri thức khoa học sáng tạo, lòng nhiệt tình say mê nghề nghiệp. Để thực hiện tốt việc giảng dạy môn Ngữ văn 6, người giáo viên phải lựa chọn phương pháp phù hợp với đặc điểm từng lớp nhằm phát huy tính tích cực, tự giác chủ động, sáng tạo của học sinh, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động 3
- vào tình cảm đem lại hứng thú học tập cho học sinh. Từ đó chất lượng học tập của học sinh ngày được nâng cao. Nhìn lại thực tế chất lượng học sinh chưa đồng đều phần lớn do các em học môn ngữ văn còn yếu kém nhiều. Trước thực trạng như vậy, là người giáo viên giảng dạy cho học sinh tôi suy nghĩ và tìm ra một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng học sinh. Đây là việc làm cần thiết và cấp bách nhằm góp phần nâng cao chất lượng bộ môn. Và tôi chon đề tài : Một số phương pháp dạy học nhằm nâng cao hiệu quả môn Ngữ văn 6. II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP : 1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến. Xét thực trạng ở trường Trung học cơ sở, các em chưa có sự yêu thích môn Văn. Các em vào lớp chưa tích cực học, về nhà không soạn bài. Thực tế trong một lớp học, sự tiếp thu kiến thức của học sinh không đồng đều. Có một số em cô giáo chỉ giảng hoặc gợi ý một lần đã hiểu bài, phát hiện vấn đề nhạy bén. Nhưng những em học sinh này lại chiếm một tỉ lệ rất ít trong một lớp học. Đa số các em còn rất thụ động, chưa dám bày tỏ quan điểm, ý kiến của cá nhân, chưa tích cực thảo luận nhóm, làm việc nhóm cho có hình thức. Một số em có ý thức tự học ở nhà rất kém, lười học, không nghiên cứu đọc sách báo, tham khảo tài lài liệu ở nhà, không tích cực xây dựng bài, chưa tích cực suy nghĩ chủ động tham gia các hoạt động tập thể để tự khám phá và chiếm lĩnh kiến thức. Các em chưa dám đặt câu hỏi cho nhóm để cùng nghiên cứu tranh luận cho bản thân, cho thầy, bạn, chưa biết tự đánh giá các ý kiến quan điểm và sản phẩm văn học của nhóm, bản thân chưa tích cực sáng tạo trong quá trình vận hành kiến thức, kĩ năng và tình huống có vấn đề đặt ra vào cuộc sống nên dẫn đến tình trạng học yếu môn Ngữ văn. Khảo sát chất lượng đầu năm học 2017-2018 như sau: Lớp TSHS Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém TS % TS % TS % TS % TS % 6A 28 0 0 1 3.6 14 50 10 35.7 3 10.7 6B 30 2 6.7 6 20 12 40 10 3.3 0 0 Kết quả trên hẳn sẽ gây thất vọng rất lớn cho người dạy văn. Từ đây có thể thấy cần tìm ra giải pháp đổi mới. Tinh thần cơ bản của phương pháp đổi mới môn Ngữ văn 4
- cũng như những môn học khác trong nhà trường phổ thông hiện nay là tích cực hóa hoạt động học của học sinh và hoạt động dạy của giáo viên. Đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng tích cực hóa đặt ra yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông, yêu cầu phát tiển nhân lực trong cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế những năm đầu thế kỉ XXI. Cơ sở của tinh thần trên xuất phát từ quan niệm dạy học hiện đại, đáng chú ý là quan niệm dạy học tích cực hóa hoạt động của học sinh (lấy học sinh là trung tâm trong quá trình dạy học). Để đạt hiệu quả trong quá trình giảng dạy, việc sử dụng đúng phương pháp dạy học sẽ mang lại kết quả tốt cho việc tiếp thu kiến thức cho từng đối tượng học sinh. 2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến 2.1. Nêu vấn đề Bác Hồ từng nói: hiền dữ phải đâu là bản tính, phần nhiều do giáo dục mà nên. Con người sinh ra sống và học tập đều phải trải qua môi trường rèn luyện bản thân, trau dồi đạo đức để trở thành con người có tri thức. Vì thế thông qua các tác phẩm văn học, học sinh sẽ thấy bao giờ cái thiện cũng chiến thắng cái ác, giáo dục con người sống có tinh thần tương thân tương ái, thương yêu đồng loại, biết ơn tổ tiên ta có công dựng nước, giữ nước qua các truyền thuyết: Con Rồng cháu Tiên, Bánh chưng bánh giày, Thánh Gióng, Sơn Tinh, Thủy Tinh, Truyền thuyết Hồ Gươm biết ơn những người tạo ra thành quả cho ta hưởng thụ, bước đầu hình thành cho các em hướng tới chân thiện mĩ, cảm nhận sâu sắc nội dung tác phẩm văn học mà các em đã và đang học trong chương trình Ngữ văn 6. Để việc học môn Ngữ văn của học sinh được hiệu quả, các thầy cô giáo cần chú trọng vận dụng có hiệu quả các phương pháp dạy học đặc thù bộ môn. Các phương pháp theo định hướng giao tiếp, phân tích ngôn ngữ, rèn luyện theo mẫu trong các giờ Tiếng Việt, Tập làm văn; các phương pháp vấn đáp, gợi tìm, phương pháp đọc sáng tạo, phương pháp dùng lời nói có nghệ thuật trong giờ học văn mà bản thân tôi đã áp dụng trong những năm qua. Nhưng tôi chỉ nghiên cứu phương pháp đặc thù trong giờ học văn giúp các em đạt hiệu quả cao. Đổi mới phương pháp dạy học là giáo viên cần biết thiết kế học tổ chức, hướng dẫn học sinh học tập, phát triển tư duy ngôn ngữ, rèn kĩ năng nghe, nói, đọc viết, năng 5
- lực bình giá tác phẩm văn học nhằm đạt yêu cầu bài học. Biết điều chỉnh học tập của học sinh, cung cấp theo thông tin mà học sinh không tìm tòi được thông qua các hoạt động trên lớp, động viên khuyến khích, cần tạo điều kiện cho học sinh tham gia một cách tích cực, chủ động sáng tạo vào quá trình giải mã, sản sinh văn bản. Giáo viên cần tăng cường sử dụng khai thác kiến thức từ việc sử dụng tranh ảnh có sẵn, tự làm, biết tạo điều kiện cho học sinh được rèn kĩ năng học tập tích cực, chủ động có sáng tạo. Hình thành thói quen vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết các vấn đề thực tiễn, chú ý khai thác vốn kiến thức, kinh nghiệm, kĩ năng nghe, nói, đọc viết đã có; bồi dưỡng hứng thú, nhu cầu thực hành và thái độ tự tin trong học tâp, để phát triển tối đa vốn kiến thức, kĩ năng học văn của bản thân. Giáo viên cần sử dụng hiệu quả, linh hoạt các phương pháp dạy học và hình thức tổ chức dạy học sao cho phù hợp nội dung đặc điểm của từng bài học, năng lực tiếp cận của học sinh, đặc trưng của môn học, lớp học, các điều kiện dạy học cụ thể của trường, địa phương. Vấn đề là ở cách vận dụng phương pháp đó một cách phù hợp, đúng lúc, đúng chỗ nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo trong hoạt động học tập văn bản của tất cả các đối tượng học sinh giỏi, khá, trung bình, yếu, kém. 2.2. Mô tả giải pháp cụ thể. Văn bản nói chung và văn bản văn học nói riêng là một kết cấu nghệ thuật tinh tế, có sự kết hợp giữa khách quan phản ánh và chủ quan biểu hiện của tác giả bằng ngôn ngữ và qua những ấn tượng và cảm giác mà ngôn ngữ mang đến, các văn bản có khả năng tái hiện một cách sinh động, gợi cảm, cụ thể hiện thực khách quan. Vì thế, học sinh có thể tái hiện, hình dung lại một cách rất sinh động hình ảnh các nhân vật trong tác phẩm văn học qua văn bản Đọc và học văn không chỉ để biết những sự kiện, hiện tượng của cuộc sống mà còn để hiểu những ý tưởng sâu xa nằm ngoài ngôn từ tác phẩm hoặc những tư tưởng tình cảm và sự đánh giá của nhà văn về hiện thực. Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh học truyện ngụ ngôn Đeo nhạc cho mèo, giáo viên cần giúp học sinh hiểu được truyện ngụ ngôn mượn chuyện loài vật, đồ vật hay chính chuyện con người để nói bóng gió kín đáo chuyện con người nhằm khuyên nhủ người ta một bài học nào đó trong cuộc sống. Vậy học sinh bắt đầu tìm hiểu truyện Đeo nhạc cho mèo mượn chuyện loài vật để nêu lên bài học luân lí cho con người: phải cân nhắc đến điều kiện và khả năng thực hiện khi dự định làm một công việc gì đó; phê phán 6
- những ý tưởng viển vông, những kẻ tham sống sợ chết, chỉ bàn mà không dám hành động, trút những công việc khó khăn nguy hiểm cho những người dưới quyền. Như vậy, đọc hiểu văn bản không chỉ hiểu được nội dung ngôn từ mang lại mà còn hiểu được những tư tưởng, tình cảm, những ngụ ý mà tác giả dân gian muốn gửi gắm qua tác phẩm văn học. Các văn bản trong chương trình Ngữ văn 6 đều được chọn lọc rất kĩ, là những tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu đặc sắc, nó giúp hoc sinh nhận thức cuộc sống đem đến những suy tưởng, những cảm xúc thẩm mĩ cao đẹp, sâu lắng trong tâm hồn của con người. Những điều này là phụ thuộc vốn kiến thức cá nhân. Do vậy sự tiếp thu kiến thức của các em chưa trùng với dự kiến của giáo viên. Dạy học văn giúp học sinh hiểu tác phẩm của nhà văn, hiểu những cảm xúc, những tư tưởng mà tác giả gửi gắm trong tác phẩm như là tác phẩm của mình. Nhà văn Nam Cao từng nói : “nhà văn phải là người khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”. Giáo viên tuy không phải là người sáng tác ra những tác phẩm văn chương nhưng là người làm ra sự sống trong lòng học sinh nên cũng cần lắm một sự sáng tạo. Chúng ta thường quen với kiểu tư duy chấp nhận cái cũ, không thừa nhận cái mới. Một bài văn của các em sẽ bị điểm kém nếu không trả bài đầy đủ những gì giáo viên giảng trên lớp, một suy những xem là lệch ngoài những gì giáo viên dạy. Chính vì thế, đổi mới phương pháp dạy học còn có nghĩa là đề cao tìm tòi, khám phá, cảm thụ, phân tích văn bản tích cực của học sinh. Ví dụ khi nêu bài học rút ra từ văn bản trích Bài học đường đời đầu tiên (trích Dế Mèn phiêu lưu kí – Tô Hoài) giáo viên chỉ nêu ra rằng Dế Mèn có ngoại hình đẹp nhưng tính tình còn hung hăng sốc nổi nên gây ra cái chết thảm thương cho Dế Choắt, Dế Mèn ân hận và rút ra được bài học đầu tiên cho mình; học sinh lại suy ra bài học về sự thương yêu, giúp đỡ những người yếu đuối, bài học về thái độ, cách cư xử trước kẻ mạnh; truyện Ông lão đánh cá và con cá vàng giáo viên chỉ nêu phê phán những kẻ tham lam bội bạc như mụ vợ của ông lão đánh cá, học sinh lại suy ra những câu thành ngữ thường áp dụng trong cuộc sống tham thì thâm, được voi đòi tiên. Còn hình tượng cá vàng tượng trưng cho lòng biết ơn, trả ơn cho người cứu giúp mình thì học sinh lại nghĩ ngay đến câu tục ngữ Ăn quả nhớ kẻ trồng cây. Khi nêu bài học rút ra từ truyện Chân Tay Tai Mắt Miệng, giáo viên đưa ra “các thành viện trong một cộng đồng muốn 7
- tồn tại phải nương tựa vào nhau, gắn bó với nhau để cùng tồn tại. Do đó phải biết hợp tác với nhau, tôn trọng công sức của nhau” nhưng học sinh lại nghĩ ra bài học tham thì thâm, hám lợi thì mất tình cảm, không sống ích kỉ, nghĩ chín chắn khi hành động, không nên ăn cây nào rào cây ấy. Mặt khác học sinh còn nêu được Một cây làm chẳng nên non Ba cây chụm lại nên hòn núi cao Cuộc sống muốn tồn tại cần phải nương tựa vào nhau, giúp nhau cùng tiến bộ. Giáo viên nên tiếp thu và đánh giá biểu dương những ý kiến này, giờ học sẽ đem lại những ấn tượng sâu sắc cho các em. Vì vậy giáo viên cần biết vận dụng các phương pháp dạy học đặc thù đối với từng phân môn. Muốn tìm hiểu được một văn bản không thể không đọc và đọc sáng tạo, nếu không học sinh sẽ không khai thác được nội dung trong văn bản cũng như đặc điểm nghệ thuật của văn bản. Song vấn đề mà tôi đề cập không phải gọi tên phương pháp mà là phải biết vận dụng chúng thế nào trong giờ học văn nhằm giúp học sinh học tập tích cực mang lại hiệu quả trong việc học môn Ngữ văn. 2.2.1. Phương pháp đọc sáng tạo. Đối với giáo viên, hướng dẫn đọc văn bản trước khi tìm hiểu nội dung là điều rất quan trọng. a. Bản chất. Đọc sáng tạo là một phương pháp vô cùng quan trọng đối với việc đọc-hiểu văn bản. Đọc sáng tạo không phải chỉ cần đọc thật hay, ấn tượng mà quan trọng là giáo viên hướng dẫn học sinh có giọng đọc có tình cảm, điệu bộ giúp học sinh nhập vai, tái tạo hình tượng nghệ thuật, để học sinh hiểu một cách chính xác nội dung văn bản, làm sao để học sinh vận dụng vào cuộc sống thực tiễn. Mức thấp là đọc- hiểu những chữ bề mặt từng dòng (tìm nghĩa hiển ngôn); mức cao là biết đọc hiểu những thông tin ở “bề sâu” văn bản do mối quan hệ giữa các dòng, giữa lời văn với nhau. Đọc sáng tạo giúp học sinh tìm ra lớp nghĩa hàm ngôn của văn bản nghệ thuật. Đọc sáng tạo là phương pháp dạy đặc thù của phân môn văn được vận dụng trong quá trình tìm hiểu, khám phá tác phẩm và cả sau khi giờ lên lớp đã kết thúc. b. Quy trình thực hiện. Ví dụ minh họa: Vận dụng phương pháp đọc – hiểu trong dạy văn bản ngụ ngôn Thầy bói xem voi. 8
- Bước 1: Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc đối với một văn bản khi tìm hiểu giá trị nội dung cần thông qua đọc, giáo viên cần quy định rõ thời gian, thông qua đọc học sinh khai thác được ý nghĩa của truyện. Vì vậy ngay từ bước đầu giáo viên cần phải nắm rõ bài này, phải đọc như thế nào mới cảm thụ được thông qua đọc văn bản khơi gợi ở các em có sự hứng thú lôi cuốn vào tác phẩm. Đối với truyện Thầy bói xem voi, giáo viên hướng dẫn học sinh đọc phân vai. - Giọng của văn bản : vui, hóm hỉnh. - Giọng người dẫn truyện: diễn cảm. - Giọng của thầy sờ vòi: giọng của một kẻ lần đầu tiên được “thấy” con voi, thể hiện một sự phát hiện mới nhưng mà không mới: “Tưởng con voi nó như thế nào, hóa ra nó sun sun như con đỉa”. - Giọng của thầy sờ ngà: phản bác lại ý kiến của thầy sờ vòi, thể hiện sự khẳng định chắc chắn “Không phải, nó chần chẫn như cái đòn càn”. - Giọng của thầy sờ tai: có phần gay gắt hơn, phản bác ý kiến của thầy sờ ngà và gián tiếp phản bác ý kiến của thầy sờ vòi: “Đâu có! Nó bè bè như cái quạt thóc”. - Giọng của thầy sờ chân: mang thái độ gay gắt, thể hiện sự không đồng tình với những ý kiến trước, khi mà mình cũng “sờ tận tay”, “cãi” lại: “Ai bảo! Nó sừng sững như cái cột đình”. - Giọng của thầy sờ đuôi, sau khi nghe ý kiến của cả bốn thầy kia đều thấy sai thì nhất mực là chỉ có mình đúng, phản bác ý kiến của tất cả: “Các thầy nói không đúng cả. Chính nó tun tủn như cái chổi sể cùn”! thể hiện sự nhấn mạnh. Khi học sinh đã nhập vai đọc văn bản thì các em đã phần nào cảm nhận được nội dung và nghệ thuật. Bước 2: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung, mục đích giao tiếp hóa thân vào tác giả, nhân vật trong tác phẩm, để học sinh hiểu tâm tư tình cảm, điều tác giả nhân vật muốn đề cập qua văn bản. Bước này đòi hỏi học sinh ở nhà chuẩn bị kĩ những câu hỏi trong sách giáo khoa cùng gợi ý của giáo viên. Đây là bước quan trọng giúp học sinh nội dung của văn bản. Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích: ? Hãy nêu cách các thầy xem voi và phán về voi? Học sinh: Các thầy xem voi một cách tình cờ và đều “xem” bằng tay, vì đều bị mù. 9
- Giáo viên: đây là hình thức lấy sự việc bất thường để nói về một vấn đề trong cuộc sống của truyện ngụ ngôn. Giáo viên: hướng dẫn, gợi ý học sinh thảo luận nhóm hai câu hỏi sau; từng nhóm đại diện phát biểu; học sinh bỏ sung, nhận xét; giáo viên chốt ý; thời gian thảo luận là 3 phút. ? Thái độ của các thầy bói khi phán về voi như thế nào? ? Tại sao các thầy lại có thái độ như vậy? Học sinh nhóm 1: Trả lời câu 1, nhóm khác nhận xét; bổ sung. - Mỗi thầy có một thái độ khác nhau nhưng đều quả quyết là mình đúng, thái độ của người nhận xét sau gay gắt hơn thái độ của người nhận xét trước. Nhóm 2 trả lời câu hỏi thứ hai, nhóm khác nhận xét, bổ sung. - Cả năm thầy bói đều phán sai về voi nhưng ai cũng khẳng định chỉ có mình đúng. Bởi các thầy lần này không hề nói mò, nói dựa như mọi khi, các thầy đã “sờ tận tay” con voi. GV: Ở đây, truyện sử dụng biện pháp phóng đại để tô đậm cái sai lầm về lí sự cũng như thái độ của các “thầy bói xem voi” ? Năm thầy bói đều đã được sờ voi thật, nhưng không thầy nào nói dúng về con vật này. Sai lầm của họ là ở chỗ nào? - Các thầy chỉ sờ một bộ phận của con voi mà đã tưởng, đã phán đó là toàn bộ con voi. Bước 3: Hướng dẫn học sinh thực hành vận dụng tạo lập một đoạn văn thể hiện những suy nghĩ của cá nhận về giá trị nghệ thuật và nội dung của văn bản. GV phát phiếu học tập cho học sinh Giáo viên yêu cầu học sinh : Nêu suy nghĩ của cá nhân em về sự việc xem voi của năm ông thầy bói. Rút ra bài học. Các em phải suy nghĩ viết một đoạn khoảng 5 dòng nêu cảm nhận của các em nêu trước lớp, giáo viên nhận xét, khuyến khích, động viên. Truyện ngụ ngôn Thầy bói xem voi mượn câu chuyện không bình thường của con người: những ông thầy bói mù xem voi để đưa ra một bài học sâu sắc: sự kém hiểu biết có nguyên nhân từ sự nhận thức sai lầm sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng về thể xác và tinh thần; từ đó khuyên người ta : muốn hiểu biết sự vật, sự việc phải xem xét chúng một cách toan diện. 10
- Từ đó học sinh sẽ thấy được trước khi đánh giá, phán xét một điều gì đó phải thận trọng, tìm hiểu kĩ. Vận dụng vào trong việc học tất cả các môn học: muốn nắm bắt kiến thức phải học hành một cách bài bản, nắm chắc lí thuyết, thực hành kĩ càng, tham khảo các tài liệu có liên quan để có được kiến thức một cách vững vàng và chính xác nhất. 2.2.2. Phương pháp dùng lời nói có nghệ thuật (diễn giảng, bình giảng có thông báo) Cơ sở của phương pháp dùng lời có nghệ thuật là dựa trên quá trình tri giác, ghi nhớ, tái hiện thông tin từ giáo viên. a. Bản chất. Phương pháp dùng lời nói có nghệ thuật là phương pháp mà người nói hoàn toàn chủ động trong việc lựa chọn sử dụng các hình thức ngôn ngữ và phi ngôn ngữ để chuyển tải những thông tin đã chuẩn bị sẵn, những suy nghĩ, cảm xúc, hiểu biết của cá nhân mình tới người nghe, qua cung cấp kiến thức, giải thích những mối liên hệ nhân – quả, khám phá và sự giảng giải những khái niệm chung, qui luật, qua trình bày bằng phương tiện trực quan như bản đồ, tranh ảnh, hoặc đọc, bình bài thơ, đoạn văn. Người nghe sẽ tiếp nhận hệ thống thông tin đó từ người nói qua nghe, nhìn, ghi nhớ và tái hiện thông tin tùy theo yêu cầu của dạy học. b. Qui trình thực hiện: Ví dụ minh họa: Vận dụng phương pháp dùng lời nói có nghệ thuật cho bài “ Thầy bói xem voi” Bước 1: Chuẩn bị nội dung thông tin, phương tiện dạy học hỗ trợ. Đối với phương pháp dùng lời nói có nghệ thuật đối với bài “ Thầy bói xem voi”. Mặc dù là phương pháp dạy học truyền thống nhưng khi áp dụng phương pháp dạy học này GV có thể cung cấp cho học sinh những tri thức kĩ năng với lời bình giảng gọn gàng, ngắn gọn, gợi cảm, thuyết phục mà bản thân học sinh còn lúng túng chưa cảm thụ thấu đáo, cần chuyển quá trình thuyết giảng của giáo viên kết hợp trao đổi, đàm thoại giữa giáo viên với học sinh để phát huy tính tích cực của học sinh. Ví dụ đối với bước 1: Giáo viên cần chuẩn bị phóng to bức tranh sách giáo khoa, chuẩn bị kĩ nội dung bài học. Bước 2: Giới thiệu bài một cách hấp dẫn gây sự chú ý cho học sinh, gây hứng thú. 11
- Trong cuộc sống ta thường nghe “ Thầy bói nói mò” , “ thầy bói nói dựa!” vậy cả 5 thầy bói xem voi phản ánh về con voi có chính xác không? Truyện nhằm khuyên nhủ ta điều gì, ta tìm hiểu truyện “ Thầy bói xem voi”. Bước 3: Hướng dẫn gợi ý học sinh tìm hiểu nội dung truyện. Hỏi: Kể tên nhân vật trong truyện ? Học sinh: Năm thầy bói mù. Hỏi: Các thầy xem voi bằng cách nào? Học sinh: Dùng tay sờ vào voi. Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát bức tranh trong sách giáo khoa và nêu ba câu hỏi để học sinh thảo luận nhóm 3 phút, giáo viên hoàn toàn chủ động gọi ý cho học sinh làm việc không nên truyền thụ một chiều. Câu 1: Hỏi: thầy bói dùng tay sờ voi vậy các thầy miêu tả con voi như thế nào? Câu 2: Tác giả dùng biện pháp nghệ thuật gì, tác dụng ra sao? Câu 3: Thái độ các thầy khi xem? Học sinh sẽ quan sát và suy nghĩ trả lời qua bức tranh. Đây là bức tranh mô tả thầy sờ tai, sờ chân còn ba ông đã sờ xong đang tranh cãi. Các thầy tranh cải như sau. Nhóm 1: câu 1 bổ sung, nhận xét, chốt ý: Thầy sờ vòi nói : “ con voi sun sun như con đỉa”. Thầy sờ ngà nói: “ con voi nó trần trẩn như đòn càn” Thầy sờ tai nói : “ bè bè như quạt thóc” Thầy sờ chân nói: “ sừng sững như cột đình”. Thầy sờ đuôi nói : “ tun tủn như chổi sể cùn” Học sinh bổ sung qua bức tranh cho thấy kết qua các thầy ai cũng cho mình đúng, ba thầy đang cãi, hai thầy còn sờ voi, nhưng năm thầy sẽ tranh cãi không ai chịu lắng nghe ý kiến của ai nên đánh nhau toạc đầu. Nhóm 2: Nghệ thuật miêu tả, so sánh. Nhóm 3: Câu 3. Cả năm thầy đều cho mình là đúng, phủ nhận ý kiến người khác. Cho thấy thái độ chủ quan sai lầm . Giáo viên khẳng định: Bằng lời miêu tả và cách so sánh tuyệt đối tương đồng và những từ láy tượng hình, các thầy đã miêu tả hết sức sinh động về “con voi” mà mình thấy. 12
- Hỏi : sai lầm của họ là ở chổ nào? Học sinh: mỗi thầy chỉ sờ một bộ phận mà phán toàn bộ con voi. ? : Người như thế nào gọi là thầy bói? - Học sinh: Đọc chú thích 1 ? : Truyện có tính chất gì? - Học sinh: chế giễu thầy bói và nghề bói toán. Giáo viên giúp học sinh nhận ra một bài học sờ vào voi mà không nói đúng về voi thì làm sao có thể nói đúng về số phận con người. Rút ra bài học cho bản thân học sinh: không mê tín “ Bói ra ma quét nhà ra rác”, “Hòn đất mà biết nói năng Thì thầy địa lí hàm răng chẳng còn”. Bước 4: Tóm tắt toàn bộ bội dung thông tin ? : Truyện “ Thầy bói xem voi” cho ta bài học gì? - Muốn hiểu biết sự vật, sự việc phải xem xét chúng một cách toàn diện, rút ra được câu thành ngữ “Thầy bói xem voi”. 2.2.3. Phương pháp vấn đáp gợi tìm: Là phương pháp hình thành trên cơ sở quá trình tương tác giữa giáo viên và học sinh thông qua việc giáo viên và học sinh đặt ra những câu hỏi và tìm ra câu trả lời tương ứng về một chủ đề nhất định. a. Bản chất Bản chất của phương pháp này là sử dụng một hệ thống câu hỏi cho học sinh tìm tòi suy nghĩ nhằm đạt mục tiêu của bài học. Giáo viên không trực tiếp đưa ra kiến thức mà hướng dẫn học sinh tư duy từng bước để từ đó hình thành kiến thức căn cứ vào tính chất hoạt động nhận thức có thể có các loại vấn đáp: Vấn đáp tái hiện, vấn đáp giải thích minh họa, vấn đáp tìm tòi. b. Qui trình thực hiện: Ví dụ minh họa: Vận dụng phương pháp vấn đáp gợi tìm khi tìm hiểu văn bản Treo biển. Bước 1. Giáo viên cần nêu một số câu hỏi cho học sinh chuẩn bị ở nhà. Đến lớp học sinh tham gia vào hoạt động dạy- học. Bước 2. Giáo viên là người đưa ra vấn đề vấn đáp, học sinh nêu suy nghĩ, học sinh khác bổ sung. 13
- Hệ thống câu hỏi theo trình tự: ? Truyện cười là gì? Học sinh nhớ lại phần chuẩn bị ở nhà nắm được và trả lời được truyện cười là gì. ? Truyện có những nhân vật nào? - Anh chủ cửa hàng bán cá, những người qua đường “góp ý”. ? Theo em ông chủ cửa hàng bán cá treo biển để làm gì? - Để quảng cáo sản phẩm của cửa hàng để người mua biết và mua. ? Nội dung của tấm biển là gì? - “Ở đây có bán cá tươi” ? Theo em, có thể thêm hay bớt thông tin nào ở tấm biển đó không? Vì sao? - Không, vì tấm biển đã đáp ứng đủ thông tin cho người mua (nơi bán hàng, hoạt động của cửa hàng, hàng được bán, chất lượng hàng). ? Nếu sự việc chỉ có như vậy đã thành truyện cười chưa? Vì sao? - Vì chưa xuất hiện yếu tố gây cười. ? Từ khi tấm biển được treo lên, điều gì xảy ra? - Nhiều người đi qua góp ý về nội dung tấm biển. và nhà hàng đã nghe theo và sửa. ? Nội dung của tấm biển được góp ý mấy lần? Mấy lần nhà hàng chữa biển. - Bốn lần góp ý. Ba lần chữa biển. ? Lần thứ nhất, người góp ý là ai? Với nội dung gì? - Người qua đường. Biển thừa chữ “tươi” vì không ai bán cá ươn. ? Lần thứ hai, khách hàng góp ý điều gì? - Tấm biển thừa chữ “ở đây”. ? Lần thứ ba, khách hàng góp ý với lí do nào? - Không ai bày cá ra để khoe, nên không cần phải đề chữ “có bán”. ? Nhà hàng nghe theo những góp ý đó như thế nào? - Nhà hàng làm theo sửa biển dần dần ? Điều đó có đáng cười không? Vì sao? - Nhà hàng máy móc nghe theo ý kiến người khác. - Đáng cười vì đã làm mất đi thông tin cần thiết của biển quảng cáo. ? Lúc này tấm biển chí còn chữ “cá” rất mơ hồ, có ai còn góp ý nữa không? Sự việc diễn ra như thế nào? 14
- - Người hàng xóm cho rằng không cần trên tấm biển phải đề chữ “cá” vì nhà đã bày đầy cá với mùi tanh. ? Nhà hàng đã làm gì? - Nhà hàng nghe theo cất biển. ? Đây có phải là sự việc đáng cười nhất không? Vì sao? Học sinh trao đổi thảo luận theo cặp trong 1 phút và trả lời. - Là sự việc đáng cười nhất. Vì nhà hàng đã biến việc treo biển thành cất biển. Một việc làm vô nghĩa. Bước 3: Hệ thống hóa nội dung vấn đáp: Giáo viên: Truyện cười tạo ra nhiều sắc thái tiếng cười: có tiếng cười khôi hài, chế giễu, phê phán nhẹ nhàng, có tiếng cười châm biếm đả kích sâu cay. ? Theo em, truyện Treo biển tạo ra tiếng cười nào? - Tiếng cười chế giễu phê phán nhẹ nhàng, tiếng cười mua vui. ? Theo em, dân gian mượn truyện này để cười ai và cười điều gì? - Cười những người không có chủ kiến, không suy nghĩ kĩ khi làm theo ý kiến người khác, dẫn đến hỏng việc ? Qua truyện treo biển em hiểu gì về nghệ thuật truyện cười? Câu hỏi này HS thảo luận theo bàn trong 1 phút. - Ngắn gọn, khai thác cái biểu hiện trái tự nhiên, trong đời sống xã hội, có khả năng gây cười. Những phương pháp dạy học này là phương pháp đặc thù trong môn Văn học nhưng theo hướng hiện nay “lý luận luôn gắn liền với thực tiễn”. Tức là học sinh qua việc học sẽ biết thực hành vào cuộc sống, biết thôi thì chưa đủ cần phải vận dụng kiến thức đó như thế nào đó mới là mục đích của giáo dục, nên phương pháp dạy học hợp tác là phương pháp không thể thiếu khi dạy môn Văn. 2.2.4. Phương pháp dạy học hợp tác (phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp cùng tham gia) Phương pháp này giáo viên tiến hành bằng cách chia học sinh trong lớp thành nhiều nhóm nhỏ, các thành viên trong nhóm cùng chia sẽ những suy nghĩ, kinh nghiệm, hiểu biết bản thân về bài học qua trao đổi, thảo luận. a. Bản chất: 15
- Dạy học hợp tác là phương pháp dạy học dựa trên sự tương tác (cùng tham gia) giữa học sinh – học sinh là chính và tương tác giữa giáo viên – học sinh. Là phương pháp dạy học đòi hỏi có sự tham gia hợp tác tích cực của các thành viên để tìm kiếm giải pháp cho một vấn đề được đưa ra, nhằm đạt được mục tiêu học tập. Trong phương pháp này giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn và có thể tham gia thảo luận giúp cuộc thảo luận đi đúng hướng. Học sinh suy nghĩ, cùng hợp tác tìm tòi, nghiên cứu, thảo luận, tranh luận, đưa ra các giải pháp, đánh giá và cùng kết luận khái quát về vấn đề, rút ra bài học kinh nghiệm từ sự hợp tác. b. Quy trình thực hiện: Ví dụ minh họa: Vận dụng phương pháp thảo luận nhóm tìm hiểu nội dung: tìm hiểu ý nghĩa hình tượng Sơn Tinh, Thủy Tinh trong truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh - Bước 1: Hoạt chung cả lớp. Tổ chức các nhóm (chia nhóm) và giao nhiệm vụ cho các nhóm đọc câu hỏi và thảo luận câu hỏi. Giáo viên nêu vấn đề cho học sinh thảo luận, treo bảng phụ: Trong truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh, Sơn Tinh, Thủy Tinh được miêu tả bằng những chi tiết nào? Em có suy nghĩ gì về hình tượng Sơn Tinh và Thủy Tinh? - Bước 2: Hoạt động theo nhóm: Học sinh suy nghĩ trao đổi ý kiến, thảo luận trong nhóm, thống nhất ý kiến, cử đại diện trình bày kết quả làm việc của nhóm mình trước tập thể. - Bước 3: Hoạt động chung cả lớp: Giáo viên gọi một đại diện nhóm trình bày kết quả của nhóm, học sinh khác quan sát, bổ sung, nhận xét. * Về cơ bản phải nêu được: - Về nghệ thuật miêu tả: đêu dùng những yếu tố tưởng tượng kì ảo để xây dựng nhân vật. Cả hai vị thần đều có tài cao phép lạ. Cuộc giao tranh giữa hai vị thần cũng đậm yếu tố tưởng tượng. - Suy nghĩ về 2 nhân vật: Sơn Tinh và Thủy Tinh là những nhân vật tưởng tượng hoang đường, không phải là nhân vật có thật. Hai nhân vật này mang ý nghĩa khái quát: Thủy Tinh là hiện tượng mưa to, bão lụt ghê gớm hàng năm; Sơn Tinh là lực lượng cư dân Việt cổ đắp đê chống lũ lụt, là ước mơ chiến thắng thiên tai của người xưa được hình tượng hóa. 16
- Bước 4: Giáo viên tổ chức chốt lại, nhằm xác nhận kiến thức và đặt vấn đề tiếp theo. Chốt lại những ý học sinh vừa nêu. Giáo viên: Vào thời đại Hùng Vương, nhân dân ta đã biết đắp đê ngăn lũ dưới sự chỉ đạo của Vua Hùng. Tư duy thần thoại, trí tưởng tượng đặc sắc của người xưa đã khái quát hóa sức nước và hiện tượng bão lụt hàng năm thành nhân vật Thủy Tinh, kẻ thù hung dữ và truyền kiếp của Sơn Tinh; Tầm vóc vũ trụ, tài năng và khí khách của Sơn Tinh là biểu tượng sinh động của cư dân Việt cổ và chiến công của người Việt cổ trong cuộc đấu tranh chống lũ lụt. Giáo viên nêu vấn đề rút ra kết luận phần ghi nhớ (sách giáo khoa) Bước 5: Đánh giá và cho điểm một số cá nhân qua đóng góp trong hoạt động nhóm. Rõ ràng việc áp dụng các phương pháp tích cực này trong dạy đọc hiểu văn bản là rất khả thi. Và chỉ khi thầy thật sự đặt mình vào vị thế học của học trò ta sẽ có thể đưa ra được những giải pháp hữu hiệu. III. HIỆU QUẢ DO SÁNG KIẾN ĐEM LẠI: 1. Hiệu quả kinh tế Khi tôi áp dụng những phương pháp đặc thù trong giờ văn, bản thân tôi nhận thấy rằng đa số các em hiểu bài, mạnh dạn đưa ra ý kiến và quan điểm của mình, biết nêu lên những thắc mắc của bản thân để cùng nhau giải quyết bàn bạc nên các em đã khắc sâu kiến thức, khi hướng dẫn tìm hiểu văn bản các em đã tích cực suy nghĩ chủ động tham gia thảo luận nhóm khi giáo viên yêu cầu. Biết vận dụng kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, biết cách đọc diễn cảm, đọc phân vai để khai thác nội dung bài học biết bình giảng ngắn khi giáo viên yêu cầu vận dụng kỹ năng giao tiếp, năng lực lao động hợp tác theo nhóm, hứng thú trong công việc chung, đa số các em có những tình cảm thái độ học tập đúng đắn. Sau khi tôi áp dụng đổi mới phương pháp dạy học kết quả cuối năm 2017-2018 đạt được như sau: 17